Chiếc xe chở thi hài chạy chầm chậm trên đường, phía sau là ba chiếc ô tô hòm với các cửa kính nhuộm màu. Simon, ngồi bên ghế cạnh lái, nhìn chăm chú ra đường.
Đoàn xe tiến vào trong nghĩa địa, len lỏi trên các lối đi dẫn lên tận đỉnh đồi rồi đỗ dọc hai bên vỉa hè.
Nhân viên nhà tang lễ khiêng quan tài ra khỏi xe và kê nó trên những chiếc mễ bên cạnh một huyệt mộ vừa mới được đào. Họ đặt hai vòng hoa trên nắp quan tài. Trên một vòng hoa lên nắp quan tài. Trên một vòng hoa có dòng chữ “Tưởng nhớ bạn thân nhất của tôi”, trên vòng hoa còn lại, do Hiệp hội nghề báo phúng viếng, có thể đọc được dòng đề từ “Kính viếng đồng nghiệp thân thiết của chúng tôi, người đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ”.
Cách đó khoảng mười mét, một phóng viên kênh truyền hình địa phương đứng hơi lui lại, camera để dưới chân, chờ đợi lễ an táng bắt đầu để quay vài cảnh.
Simon là người đầu tiên phát biểu, để nói lên rằng người quá cố với anh thân thiết chẳng khác nào anh em, rằng sau hình ảnh một phóng viên ngang bướng và hay tỏ ra cục cằn ẩn giấu một người đàn ông hào hiệp, đôi lúc hài hước. Andrew không đáng phải chết trẻ như vậy. Anh vẫn còn biết bao công việc phải hoàn thành, một cái chết uổng như thế thật khó chấp nhận.
Simon phải ngưng lại để kìm tiếng nức nở, anh chùi nước mắt và kết lại rằng những con người tốt đẹp nhất luôn là những người đầu tiên ra đi.
Olivia Stern, tổng biên tập tờ The New York Times, đến lượt mình cũng bước lên và, với vẻ mệt mỏi, cô nhắc lại cảnh ngộ bi thảm khi Andrew Stilman bỏ mạng.
Vốn là phóng viên điều tra dày dạn kinh nghiệm, anh đã sang tận Argentina để truy lùng một cựu tội phạm chiến tranh. Trở lại New York, sau khi hoàn thành nhiệm vụ một cách dũng cảm, Andrew Stilman đã bị sát hại khi đang chạy bộ dọc bờ sông Hudson, một bằng chứng cho thấy con người ta không bao giờ chạy đủ nhanh một khi đang bị thần chết rượt đuổi. Một hành vi bỉ ổi, được thực hiện hòng bóp nghẹt sự thật. Một cuộc trả thù nhơ bẩn của con gái tên ác quỷ từng bị Andrew vạch mặt. Khi tấn công Stilman, kẻ giết anh đã tấn công vào tự do báo chí và hành vi của cô ta đã tiếp nối những điều man rợ mà cha cô ta từng gây ra trong quá khứ. Nhưng trước khi chìm vào cơn hôn mê sâu mà anh không bao giờ thoát ra được, Andrew Stilman đã kịp tiết lộ tên của kẻ giết anh cho nhân viên cứu thương. Tổ quốc Hoa Kỳ sẽ không bao giờ để kẻ gây ra cái chết cho một người con của đất nước thoát khỏi sự trừng phạt. Yêu cầu dẫn độ tội phạm đã được chuyển tới nhà chức trách Argentina. “Công lý sẽ được thực thi!” Olivia Stern hô vang.
Rồi cô đặt hai tay lên quan tài và ngước mắt nhìn bầu trời trước khi long trọng tuyên bố: “Andrew Stilman là một con người của niềm tin, anh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho công việc, cho nghề báo, thành lũy cuối cùng của nền dân chủ của chúng ta. Andrew Stilman, anh đã ngã xuống trên thành lũy này như một người lính trên chiến trường, chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên anh. Ngay ngày mai, phòng tư liệu B, căn phòng nằm ở tầng ngầm đầu tiên, phía bên phải khi nhìn từ thang máy ra, cô nói thêm đồng thời liếc ánh mắt đồng lõa về phía trưởng phòng nhân sự, sẽ được đổi tên để tưởng nhớ anh. Nó sẽ không còn là phòng tư liệu B nữa, mà sẽ mang tên ‘phòng Andrew Stilman’. Chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên anh!” Cô dằn từng tiếng.
Một vài đồng nghiệp của Andrew đi đưa tang vỗ tay hoan nghênh trong khi Olivia Stern hôn lên nắp quan tài, in lên lớp gỗ sồi phủ véc ni hai vệt son môi hiệu Coco Chanel. Rồi cô quay về chỗ.
Nhân viên nhà tang lễ chờ đợi tín hiệu từ Simon. Bốn người đàn ông khiêng quan tài đặt lên một vòm bán nguyệt nhô cao trên mộ. Họ khởi động chiếc tời và di hài Andrew Stilman từ từ khuất dần dưới lòng đất.
Những người đã dành cả buổi sáng để tiễn anh ra nghĩa địa lần lượt tiến lại tạm biệt anh trong ngôi nhà mới. Ở đây có mặt Dolorès Salazar, nhân viên phòng tư liệu vốn rất quý mến Andrew – họ thường xuyên gặp nhau vào các sáng thứ Bảy tại trụ sở của Hội đệ tử Lưu Linh vô danh trên phố Perry - , Manuel Figera, người đưa thư - Andrew là người duy nhất thỉnh thoảng đãi ông cà phê những khi họ gặp nhau tại căng tin - , Tom Cimilio, trưởng phòng nhân sự - người mà cách đây hai năm đã dọa sẽ sa thải anh nếu anh không giải quyết dứt điểm vấn đề rượu chè của mình - , Gary Palmer, nhân viên phòng pháp lý- , người thường xuyên dàn xếp ổn thỏa những thái quá mà Andrew gây ra khi thực thi chức trách- , Bob Stole, chủ tích công đoàn - ông chưa từng quen biết Andrew, nhưng ngày hôm đó, ông có ca trực - , và Freddy Olson, đồng nghiệp cùng phòng, - người mà ta không thể biết là anh ta sắp khóc đến nơi hay đang kiềm chế tiếng cười điên dại vang như sấm mỗi khi anh ta mang vẻ mặt đưa đám kia.
Olson là người cuối cùng thả một cành hoa hồng bạch xuống linh cữu. Anh ta cúi xuống để nhìn xem cành hồng đã hạ cánh ở đâu và thiếu chút nữa còn ngã nhào xuống huyệt nếu ông chủ tịch công đoàn không kịp tóm được tay áo anh ta.
Rồi, đoàn người đi xa dần và đến đứng thành nhóm quanh mấy chiếc ô tô.
Người này ôm ghì lấy người kia, Olivia và Dolorès nước mắt ngắn dài, Simon cảm ơn tất cả những người đã đi đưa tang và mỗi người lại lặng lẽ trở về với những mối bận tâm của mình.
Dolorès có một cuộc hẹn sơn sửa móng vào lúc 11 giờ, Olivia hẹn đi ăn trưa với một cô bạn, Manuel Figera thì hứa sẽ đưa vợ tới Home Depot để mua một chiếc máy sấy quần áo mới, Tom Cimilio là nhân chứng trong đám cưới của cậu cháu trai, Gary Palmer phải đi gặp người bạn đang quản lý một quầy hàng tại Flea market trên phố 25, Bob Stole trở về tòa soạn hoàn thành nốt ca trực và Freddy Olson thì để dành buổi chăm sóc sức khỏe theo liệu pháp phương Đông cho giờ nghỉ trưa tại một cơ sở ở khu phố Tàu, nơi mà các cô nhân viên mát xa có lẽ đã lâu lắm rồi không phải đi xưng tội.
Mỗi người trở lại với cuộc sống của họ, để Andrew lại với cái chết.
*
Những giờ đầu tiên tiếp sau lễ an táng đối với anh cứ dài đằng đẵng, và nhất là cảm giác cô độc, điều này khá bất ngờ với một người như anh, người đã luôn khao khát được ở một mình. Và nỗi lo sợ xâm chiếm anh lần này không gây ra cơn thèm một ly cocktail Fernet- Coca, không mồ hôi, không run rẩy, thậm chí mạch cũng không đập dồn dập hơn, mà vì những lẽ đã rõ.
Rồi màn đêm buông xuống và, cùng với nó, cái hiện tượng lạ lùng mà anh ngay lập tức nhận thức được.
Mặc dù cho tới khi ấy anh đã khá quen với sự chật chội của “ngôi nhà nhỏ trong lòng đất, không cửa ra vào không cửa sổ” của mình và dù sự im lặng ngự trị ở nơi cách mặt đất sáu tấc này rốt cuộc cũng không khiến anh thấy phiền phức hơn chuyện đó (anh từng yêu thích biết bao cảnh xô bồ trên đường phố, tiếng ồn ào từ chiếc máy khoan, những cảnh sát đi mô tô hòa trộn vẻ hùng tráng với tiếng vù vù của động cơ xe, tiếng còi xe huyên náo, những chiếc xe tải giao hàng vừa lùi vừa bấm còi khiền người ta nảy sinh ý đồ giết quách gã tài xế đi cho rồi, những gã tay chơi phê thuốc hát đến váng đầu trên suốt cả quãng đường về nhà, những kẻ mà người ta những muốn đuổi theo đến tận cửa nhà để ăn miếng trả miếng), Andrew, trong sự ngạc nhiên tột độ, thấy mình bay lên vài xăng ti mét phía trên nấm mồ mới đắp trên quan tài chứa xác anh. Cũng phi lý với anh hệt như chuyện này, anh ở đó, ngồi xếp bằng, và có thể nhìn thấy mọi thứ diễn ra xung quanh mình, tức là không có gì đáng kể.
Vì rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, anh bắt đầu trò thống kê.
Bãi cỏ bị gió quần thảo chĩa những ngọn cỏ quay về hướng Bắc. Những khóm thông đỏ, những cây thích và những cây sồi trong góc cũng dập dờn về cùng hướng đó. Tất cả thiên nhiên xung quanh dường như đều hướng về xa lộ nằm phía dưới nghĩa địa.
Và đột nhiên, trong khi đang rụng rời tự hỏi mình sẽ còn phải ở trong hoàn cảnh khó chịu này bao nhiêu giờ đồng hồ nữa, thì anh nghe thấy một giọng nói:
- Anh sẽ quen thôi, ban đầu thì có vẻ hơi lâu, nhưng rốt cuộc chúng ta cũng sẽ mất ý niệm về thời gian. Tôi biết anh đang tự nhủ điều gì. Nếu anh nghĩ đến cái chết của mình sớm hơn, hẳn là anh sẽ móc hầu bao mua một khoảnh đất có tầm nhìn ra biển. Và anh sẽ mắc sai lầm trầm trọng. Sóng biển rốt cuộc cũng chỉ là một thứ phiền phức! Trong khi đó trên xa lộ, thỉnh thoảng lại xảy ra những chuyện hay ho. Tắc đường, những cuộc rượt đổi, tai nạn, phong phú thể loại hơn hẳn những gì chúng ta hình dung.
Andrew nhìn về hướng phát ra giọng nói. Một người đàn ông ngồi xếp bằng, cũng đang bay như anh, phía trên mồ bên cạnh chừng vài phân, đang mỉm cười với anh.
- Arnold Knopf, người đó nói mà vẫn không thay đổi tư thế. Tên tôi đó. Tôi bắt đầu sang năm thứ năm mươi ở đây rồi. Anh sẽ thấy, anh sẽ quen thôi, chỉ là một vố phải chịu thôi mà.
- Vậy là như thế sao, cái chết ấy? Andrew hỏi, chúng ta ở đây, ngồi trên nấm mồ của mình mà ngắm quốc lộ sao?
- Anh muốn ngắm gì thì ngắm, anh được tự do mà, nhưng đây là điều tôi thấy khuây khỏa nhất. Đôi khi, có người tới thăm viếng, đặc biệt vào dịp cuối tuần. Những người sống đến đây khóc thương trên nấm mồ của chúng ta, nhưng riêng mồ của tôi thì không. Còn về hàng xóm láng giềng của chúng ta, họ đã ở đây lâu đến mức mà những người từng đến thăm họ cũng đến lượt bị chôn cất cả. Đa số còn không buồn ra ngoài nữa kia. Hai chúng ta là những người trẻ tuổi nhất của khu này, nếu tôi có thể gọi như vậy. Tôi hy vọng là anh cũng sẽ được thăm viếng, ban đầu thì luôn có người tới thăm, sau đó nỗi đau nguôi dần, người thăm cũng sẽ vãn.
Andrew, trong suốt quãng thời gian hấp hối kéo dài, thường xuyên hình dung ra cái chết có thể là gì, thậm chí hy vọng tìm thấy trong đó một dạng phóng thích những con quỷ sa tăng từng ám anh. Nhưng chuyện xảy đến với anh lại tệ hại hơn tất thảy những gì mà đầu óc tinh quái của anh từng tính đến.
- Tôi đã chứng kiến bao nhiêu chuyện, anh biết đấy, người đàn ông nói tiếp. Hai thế kỷ và ba cuộc chiến tranh. Có tưởng tượng nổi rằng chỉ một cơn viêm phế quản tầm thường đã hạ gục tôi. Hãy nói với tôi rằng cái thứ nực cười ấy chẳng giết nổi người đâu! Thế còn anh?
Andrew không trả lời.
- Nghe này, chúng ta chẳng vội vàng gì, với lại anh đừng chán nản, tôi đã nghe hết rồi, ông hàng xóm nói tiếp. Đã có rất đông người đến đám tang của anh. Bị sát hại, dù sao cũng không phải chuyện tầm thường.
- Đúng, khá là độc đáo, tôi công nhận, Andrew đáp.
- Hơn nữa lại dưới tay một phụ nữ!
- Phụ nữ hay nam giới thì cũng chẳng thay đổi được gì nhiều, không hiểu sao?
- Tôi cho là không. Mà dù sao cũng có. Ngài đây không có con sao? Tôi không thấy quả phụ hay nhóc tì nào.
- Không, không vợ góa con côi, Andrew thở dài.
- Vậy là độc thân sao?
- Mới thôi.
- Thật đáng tiếc, nhưng như vậy có khi lại tốt cho cô ấy.
- Tôi nghĩ thế.
Xa xa, đèn hiệu của một xe cảnh sát bắt đầu nhấp nháy, chiếc xe con mà nó đang đuổi theo đỗ lại trên làn đường dừng khẩn cấp.
- Anh thấy đấy, trên xa lộ không ngừng xảy ra những chuyện hay ho. Đây là đường cao tốc Long Island nối liền với sân bay JFK. Mọi người lúc nào cũng vội vã và lần nào họ cũng tự chui vào rõ ở khu vực này. Những ngày đẹp trời, có một kẻ nào đó không chịu dừng lại, khi ấy anh có thể xem màn rượt đuổi đến tận chỗ ngoặt đằng kia. Sau đó, hàng cây tiêu huyền lại che mất tầm nhìn của chúng ta, tiếc thật.
- Ý ông là chúng ta không thể nhúc nhích khỏi mộ mình à?
- Có chứ, dần dần theo thời gian. Tuần trước tôi vừa đi được đến cuối lối đi, sáu mươi bước liền! Dẫu sao cũng mất năm mươi năm luyện tập! May mà công sức bỏ ra được tưởng thưởng, nếu không thì có gì vui chứ?
Andrew thấy tuyệt vọng. Ông hàng xóm tiến lại gần anh.
- Cứ lo đi, tôi thề với anh là anh sẽ quen thôi. Ban đầu chuyện này có vẻ bất khả thi, nhưng rồi anh sẽ thấy, tin tôi đi.
- Ông hẳn sẽ thấy buồn phiền nếu chúng ta giữ im lặng một thời gian đấy. Tôi thực sự cần được yên tĩnh.
- Thứ thời gian mà anh muốn, chàng trai ạ, Arnold Knopf bắt bẻ, tôi hiểu mà, tôi không vội đâu.
Và cả hai người cứ ngồi xếp bằng bên nhau như thế trong đêm tối.
Một lát sau, đèn pha một chiếc ô tô chiếu sáng con đường dẫn từ cổng vào nghĩa trang lên ngọn đồi. Việc người ta mở cánh cổng mà vào giờ này thường đã khóa kín để chiếc ô tô đi vào là một điều bí ẩn đối với Arnold, người đã chia sẻ sự ngạc nhiên của mình với Andrew.
Chiếc xe con màu nâu đỗ dọc vỉa hè, một phụ nữ bước xuống và tiến về phía họ.
Andrew ngay lập tức nhận ra vợ cũ, Valérie, tình yêu của đời anh mà anh đã để mất vì một sai lầm ngớ ngẩn nhất đời. Và hoàn cảnh của anh lúc này đã chứng thực cho cái giá mà anh phải trả vì một khoảnh khắc lầm lỗi, một lần mê đắm qua đường.
Cô có biết những day dứt đã gặm nhấm anh biết bao! Rằng anh đã từ bỏ chiến đấu kể từ giây phút cô ngừng tới bệnh viện thăm anh?
Cô tiến lại phía ngôi mộ và tĩnh tâm trong không khí im lặng tuyệt đối.
Nhìn thấy cô ngồi sụp xuống trước mặt mình như vậy khiến anh lần đầu tiên thấy nguôi ngoai kể từ khi bị đâm bên bờ sông Hudson.
Valérie đang ở đây, cô ấy đã tới, và điều đó đáng kể hơn tất thảy.
Đột nhiên, cô lén vén jupe lên rồi bắt đầu đi tiểu lên tấm bia đá.
Làm xong việc, cô chỉnh lại trang phục và nói dõng dạc:
- Biến đi cho khuất mắt, Andrew Stilman.
Rồi, cô trở lên xe và chuồn êm như khi cô đến.
- Chuyện đó, tôi phải nói là, cũng không tầm thường đâu! Arnold Knopf rít lên.
- Cô ấy đã tè bậy lên mộ tôi thật à?
- Không muốn dài dòng văn tự làm gì, tôi tin chắc rằng đó chính xác là điều cô ấy vừa làm. Tôi không muốn là kẻ tọc mạch, nhưng anh đã làm gì mà khiến cô ấy tới đây tiểu tiện như thế giữa lúc đêm hôm?
Andrew buông một tiếng thở dài.
- Vào đêm tân hôn, tôi thú nhận với cô ấy rằng mình đã phải lòng một phụ nữ khác.
- Tôi hài lòng khi có anh làm hàng xóm, Andrew Stilman ạ, anh không thể biết tôi hài lòng đến mức nào đâu! Tôi cảm thấy mình sẽ bớt buồn phiền đi nhiều đấy, thậm chí hết hoàn toàn. Ban nãy tôi đã nói dối anh một chút, chúng ta luôn phát bực vì phải chết. Và vì mọi chuyện đã rồi, thật sự chẳng còn lựa chọn thay thế nào, nên ta rơi vào ngõ cụt, anh bạn ạ. Không nên nói ra điều này, nhưng tôi có cảm tưởng cô nàng ghê gớm của anh vẫn chưa tha thứ cho anh đâu. Mà thêm nữa, dốc cạn gan ruột vào đêm tân hôn, tôi không muốn đóng vai kẻ rao giảng đạo đức đâu, nhưng phải công nhận là anh đã chọn sai thời điểm.
- Tôi không có khiếu nói dối, Andrew thở dài.
- Ấy vậy mà anh đây từng là nhà báo sao? Sau này hãy kể cho tôi từ đầu chí cuối nhé, tôi phải thực hành mấy chiêu tập trung tinh thần đã, tôi tự thề với mình là đến cuối thế kỷ này sẽ tới được cái khóm cây mà anh thấy ở chỗ kia kìa. Tôi chán ngấy mấy cây tiêu huyền này rồi!
- “Từng”… thời quá khứ. Cách nói này tác động tới Andrew chẳng khác nào một phát đại bác xuyên thủng thành lũy của một pháo đài. Đã, và đang chỉ còn là một cái xác đang phân hủy.
Andrew cảm thấy bị hút lại phía ngôi mộ, anh cố gắng kháng cự lại lực hút đang kéo mình xuống dưới lòng đất và anh hét lên.
*
Simon tiến lại chỗ xô pha, tung chăn ra và lay người anh.
- Thôi mấy cái trò rên rỉ đó đi, thật không thể chịu nổi. Dậy đi, 10 giờ rồi đấy, đáng lẽ cậu phải đi làm rồi chứ!
Andrew hít một hơi thật sâu, như người thợ lặn vừa trồi lên khỏi mặt nước sau một lúc lâu nhịn thở.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận