Mặt trời vừa ở ngọn cây nhòm xuống, như muốn cười với nhân gian. Trên đường thỉnh thoảng đã có từng lũ học trò, lẻ tẻ kéo về. Lúc ấy, bọn Vân Hạc mới tới trước cửa trường thi.
Vì không ai ngờ Đốc Cung có thể bị "ra bảng con" cho nên cả bọn xăm xăm tới dưới bảng lớn.
Kỳ này chỉ có một bảng "yết tên" treo ở cạnh cửa giáp. Tuy là kỳ cuối cùng, nhưng số học trò "được vào" cũng còn đến hơn trăm người. Thoạt coi đầu bảng, thấy tên Đoàn Bằng, ai nấy đều vỗ tay reo. Cách vài dòng nữa, đến tên Vân Hạc. Rồi cuối bảng, thì tên Tiêm Hồng. Riêng tên Đốc Cung, tìm đi hâm lại mấy lần không thấy. Bấy giờ Đốc Cung mới càng chột dạ. Cả bọn đều tỏ ra vẻ ái ngại. Đốc Cung nói bằng giọng liều:
- Có lẽ họ cho mình ra bảng con thật chắc!
Đoàn Bằng nhất định không tin:
- Chẳng có lý nào như thế.
Vân Hạc cố trêu Đốc Cung:
- Lý nào cái đó? Hễ viết vô ý một tí, thì được nêu tên bảng con, chứ có khó gì?
Rồi đó, chẳng ai bảo ai, cả bọn đều đi đến cạnh bảng con.
Cái bảng mới xấu làm sao! Nó là một mảnh cót cũ, quét vôi nhơm nhớp như một tấm mái nhà mồ, bề ngang chừng hơn ba gang, bề dọc độ gần ba thước.
Người ta treo nó trong cái nhà bảng lụp xụp, mặt bảng chỉ độ ngang với mặt người.
Nhác trông trên bảng, Vân Hạc liền kêu giật giọng.
- Thôi chết! Có tên anh Cung thật rồi.
Mọi người ngơ ngác nhìn theo. Trong bảng có chừng mười mấy tên người. Người thì phạm húy, người thì "khiếm đài", người thì viết không đủ quyển… mỗi người môi tội khác nhau. Tên của Đốc Cung liệt ở giữa bảng, dưới có bốn chữ "cổ văn khiếm tỵ" viết nhỏ theo lối chú cước, đối với bốn chữ "Hà Nội, Trúc Lâm".
Tất cả bốn người sắc mặt đều thấy tái mét. Vân Hạc sẽ hỏi Đốc Cung:
- Chắc là trong quyển của anh có chỗ dùng phải những chữ trùng với tên lăng, tên điện của nhà vua mà anh không biết.
Đoàn Bằng trả lời:
- Không có! Sáng nay tôi đã xem đi xem lại bản giáp của bác ấy rồi. Chẳng có chỗ nào khiếm tỵ.
Vân Hạc vẫn ngó Đốc Cung:
- Nhưng mà bản giáp của anh có đúng như trong quyển thi hay không?
Đốc Cung đáp bằng giọng cả quyết:
- Đúng lắm. Đúng từ những chỗ "đồ di câu cải" trở đi. Có đều trong quyển viết chữ chân phương, bản giáp thì hơi đá thảo một chút.
Tiên Hồng nói xen:
- Nếu vậy, thì bác phải làm ngay giấy khiếu oan, đưa vào trong trường, để xin quan trường xét lại.
Đốc Cung ra vẻ tự phụ:
- Khiếu làm cái gì? Hỏng khoa này lại thi khoa sau, chẳng tội gì mà cày cục?
Đoàn Bằng gạt đi:
- Bác nói tuy vẫn có lý, nhưng học trò đi thi mà phải nêu ra bảng con, cũng là một sự mang tiếng, có khi còn để lụy cho các quan huấn giáo hạt mình nữa chứ! Bởi vậy tôi tưởng bác nên khiếu oan, để rửa cái tai tiếng kia.
- Khiếu oan là phải. Nhưng cũng hãy nên coi lại bản giáp lần nữa cho thật cẩn thận xem rằng có đích là mình bị oan hay không.
Tiêm Hồng khen phải. Lập tức cả bọn kéo về nhà trọ.
Bấy giờ ở các đường phố, học trò đã đương nhao nháo kháo nhau về chuyện Đốc Cung phải ra bảng con.
Mỗi khi gặp người quen biết hỏi thăm, Đốc Cung tưởng mỗi nhời nói của họ là một mũi giáo đâm vào ruột mình. Nhưng chàng cũng chỉ đáp lại bằng một nụ cười, vì không biết trả lời thế nào cho phải.
Tới nhà, Đoàn Bằng giục luôn Đốc Cung lấy ngay bản giáp của chàng đưa cho mình coi. Cả bọn xúm lại trên mảnh giấy, giở suốt từ đầu đến cuối, chẳng thấy "khiếm tỵ" chỗ nào. Sau cùng đến lượt Vân Hạc. Coi một lần trước cũng không thấy gì, nhưng còn hồ nghi, chàng lại coi thêm lần nữa. Khi giở đến tờ thứ tư, Vân Hạc chỉ tay vào một dòng chữ và nói bằng một giọng kình ngạc:
- Còn oan gì nữa, chẳng "khiếm tỵ" thì cái gì đây?
Mọi người đều nhìn theo chỗ Vân Hạc đã chỉ, thì thấy có mấy chữ rằng:
"Tam bách niên xã tắc chi trường, ninh phi lại ư thử tai".
Lúc ấy ai nấy thất sắc, Đốc Cung vỗ tay xuống phản và nói hai tiếng vắn cộc:
- Con chó!
Rồi chàng lại thuần vẻ mặt và cười:
- Bốn người tìm mãi từ sáng đến giờ mới thấy, thế mà trong lúc chấm văn nhanh như ăn cướp, quan trường cũng bới ra được, thật là thánh quá. Hỏng thì hỏng, tôi cũng bái phục cái tài xoi mói của các ngài ấy.
Thêm Hồng ngắt lời:
- Không phải là các quan trường có ý bới móc. Bởi tại mệnh lệnh nhà vua giao cho như vậy, nếu không làm hết chức vụ, tất nhiên tội sẽ đến thân. Ngày xưa, biết bao nhiêu ông khảo quan chỉ vì chấm văn sơ xuất mà bị phạt bổng, giáng cấp, có ông còn bì cách chức nữa kia!
Đoàn Bằng an ủi Đốc Cung:
- Thôi, bác cũng đừng phàn nàn. Chúng ta còn đương niên thiếu lực cường, tiền trình còn dài, chẳng đỗ khoa này thì đỗ khoa khác. Miễn là bác đừng ngã lòng.
Đốc Cung vẫn ngông:
- Tôi chẳng ngã lòng chút nào. Lương Hiệu nhà Tống tám mươi hai tuổi còn thi và còn đỗ được trạng nguyên, nay tối mới hai mốt tuổi, chưa đỗ cũng chưa là muộn. Chỉ hiềm bản triều không lấy trạng nguyên mà thôi.
Vân Hạc cố ý trêu ghẹo:
- Tôi cũng chắc anh phải đỗ, nếu mà trời cho học lực của anh được bằng người ta.
Đốc Cung cũng trả miếng bàng giọng bông đùa:
- Vậy còn anh nữa? Không biết năm nay học lực của anh đã bằng người ta hay chưa?
Vân Hạc chưa kịp trả lời, ông chủ nhà trọ vừa ở nhà dưới đi lên và nói lễ phép:
- Vì bận sai bảo chúng nó làm mấy món ăn, cho nên từ nãy đến giờ, tôi chưa kịp hỏi chuyện các ngài. Thế nào? Bốn ngài được "vào" cả chứ?
Đốc Cung chỉ vào anh em Vân Hạc và đáp:
- Cả ba ông này đều "vào", chỉ có một mình tôi hỏng. Đúng như lời ông nói lúc sáng ngày, tôi bị nêu ra bảng con thật!
Ông chủ nhà trọ đường định tìm câu an ủi Đốc Cung, nhưng chưa tìm được, ngoài cổng bỗng có tiếng người là lạ:
- Bùi tiên sinh vẫn còn ở đây đấy chứ?
Đốc Cung lầm bầm với Vân Hạc:
- Thằng nào mà hỏi đến vậy. Chắc nó tưởng mình bị hỏng, đã xách khăn gói cút rồi.
Rồi chàng nói chõ ra cổng:
- Tiên sinh còn đây. Ai muốn hỏi gì thì vào trong này.
Ông chủ nhà trọ lật đật chạy ra đón khách. Có phải ai đâu. Cậu Trần Đức Chinh hôm nọ.
Giữa lúc Đoàn Bằng, Tiêm Hồng cùng ngẩng lên nhòm, Đức Chinh đã ở ngoài sân tiến vào với một dáng điệu bạo dạn, khác hẳn cái bộ rụt rè khúm núm trong lúc hắn đi thuê người làm văn.
Cả bọn cùng đứng dậy chào.
Sau khi Đốc Cung đã lần lượt nói tên người nọ với người kia, Đoàn Bằng mời Đức Chinh cùng ngồi vào chỗ mọi người đương ngồi. Vân Hạc sẽ hỏi Đức Chinh:
- Cậu có được "vào" hay không?
Đức Chinh đáp bằng vẻ mặt sung sướng:
- Không, tôi bị hỏng.
Rồi hắn nhìn sang Đốc Cung:
- Chết chửa? Sao ở bảng con tôi lại thấy có tên ông?
Đốc Cung cười nhạt:
- Viết văn không cẩn thận, thì phải nêu ra bảng con, chứ có lạ gì sự đó?
Đức Chinh nói tiếp:
- Vậy ông phạm phải lỗi gì? Không phải là phạm húy chứ?
- Không. Có phạm húy đâu? Tôi phạm vào tội "khiếm ty". Vì ở đoạn văn nói về đời Đường của tôi, lỡ viết phải câu "tam bách niên xã tắc chi trường, ninh phi lại ư thử tai".
Ông chủ nhà trọ đứng ở bên cạnh, có ý lấy làm kinh ngạc, liền hỏi:
- Thưa ông câu ấy là nghĩa thế nào?
Đốc Cung đáp:
- Nghĩa là "xã tắc nhà Đường lâu dài đến ba trăm năm, há chẳng phải nhờ ở điều đó hay sao?" ông chủ nhà trọ càng lấy làm lạ:
- Như thế thì có can gì mà đến phải nêu bảng con?
Đức Chinh hùa theo:
- Chắc là ông bị cái lỗi gì khác, chứ như câu ấy thì có việc gì?
Đốc Cung chỉ cười không trả lời. Đoàn Bằng rẽ rẽ cắt nghĩa:
- Phải đấy, ông Cung phải nêu bảng con là tại câu đó. Bởi vì theo phép bản triều, học trò đi thi chẳng những phải kiêng khinh húy, trọng húy của nhà vua mà đến những chữ tên các cung điện, lăng tẩm trong kinh bây giờ, cũng đều không được dùng đến. Ví như lăng ông Gia Long tên là Thiên thụ, thì khi làm ván không được viết chữ Thiên thụ. Hay như ở trong hoàng cung có điện Cần chánh thì chữ Cần chánh cũng không được dùng làm văn... Nhưng chỉ kiêng ở văn cổ mà thôi.
Đức Chinh cố làm ra bộ thạo việc trường ốc:
- Tôi cũng biết thế, nhưng trong hai câu của Bùi tiên sinh có chữ nào phạm lệ đó đâu?
Đoàn Bằng nói tiếp:
- Có chứ. Chữ "trường" và chữ "ninh".
Ông chủ nhà trọ vội hỏi:
- Thưa ngài, thế hai chữ ấy cũng phạm húy ư?
Đoàn Báng lắc đầu:
- Không, Trường Ninh là tên cái cung nào đó. Hình như là cung của Hoàng thái hậu vẫn ở thì phải.
Đức Chinh ra vẻ ngơ ngác:
- Quái lạ, trong hai câu của Bùi tiên sinh, làm gì có chữ trường ninh.
Vân Hạc phì cười và nói:
- Vậy thì cậu thử đọc lại xem nào.
Đức Chính lẩm nhẩm lần nữa:
...thử tai? "
Rồi hắn vỗ đùi đánh đét:
- À! Phải rồi! Có thật! Chữ trường ở cuối câu trên, chữ ninh ở đầu câu dưới.
Và hắn lại hỏi:
- Tôi tưởng về những chữ tên lăng tẩm cung điện nhà vua, chỉ có khi nào hai chữ cùng ở một câu mới là phạm cấm. Mỗi chữ mỗi nơi như thế cũng phải kiêng ư?
Tiêm Hồng nói góp:
- Bởi vì hai chữ tuy ở hai câu, nhưng nó đứng liền nhau thì cũng như ở một câu, cho nên cũng là có tội.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận