Cừu Loan nguyên là một tên tướng vô danh bỗng dưng được phong làm Đô đốc cầm một toán quân mười vạn nên lấy làm đắc chí.
Hiu hiu tự đắc, y tưởng đại quân của y kéo tới đâu, người ta chỉ có việc ra hàng. Và y ngạc nhiên hết sức khi thám tử phi báo rằng quân Nam đang sẵn sàng chờ y ở cửa ải Nam quan.
Xế chiều, y lẻn đi cùng với Mao Bá Ôn và mấy tên tùy tùng, leo lên một ngọn núi xem xét địa thế.
Tên Tán lý họ Mao trỏ roi xuống bảo tên chủ tướng:
- Bọn này cũng là những tay khá đây. Chúng thông hiểu binh pháp nên chúng chọn được chỗ đóng trại có địa thế tốt nhất. Trại chúng đóng cũng nghiêm chỉnh lắm.
Họ Cừu cười khẩy đáp:
- Nhưng chúng quên rằng quân của chúng chỉ có hai nghìn. Còn quân ta thì những mười vạn. Chúng ta quơ tay không cũng túm được chúng nó không sót một mống.
- Dù sao chúng ta cũng chớ nên khinh địch.
- Hà hà! Để ngày mai ông xem quân ta lập kỳ công.
Hôm sau, chúng đem quân đến trước trại quân Nam thách đánh.
Cửa trại đóng im lìm. Cờ xí vẫn phất phơ bay, nhưng tuyệt nhiên trống trận không được gióng lên một tiếng.
Cừu Loan cười bảo những kẻ đứng hầu bên:
- Ta đoán có sai đâu. Chúng nó sợ rồi. Chậm lắm là sáng mai chúng nó phải bỏ trại mà chạy tháo lấy thân.
Ngay buổi chiều hôm ấy đã có tin do thám về báo cáo:
- Họ đã đi rồi. Không biết đi từ bao giờ và đi bằng cách nào mà bây giờ chỉ còn trơ một cái trại không.
Cừu Loan vỗ tay cười:
- Thì ra chúng không dám đợi đến ngày mai! Biết mà! Chỉ nghe gió quân ta đi, chúng đã phải chạy dài. Thế là không tốn một mũi tên, ta đã thắng được một trận. Thôi, hãy vào trại nghỉ ngơi, khao quân một bữa cái đã! Ngày mai, sẽ tính đến ải Nam quan.
Bá Ôn rụt rè đưa ý kiến:
- Xin Đô đốc đề phòng. Tôi sợ có mẹo lừa chăng?
Họ Cừu trấn an thuộc hạ:
- Không có đâu. Tôi biết có lẽ chúng không hèn. Nhưng chúng yếu thế quá. Có muốn đánh cũng không lấy gì mà đánh được nên buộc lòng chúng phải chạy.
*
Giữa giờ tuất, tướng tá cũng như binh sĩ, quân nhà Minh đang chén chú chén anh vui say túy lúy.
Bỗng có tiếng nổ liên hồi ở bốn phương, tám hướng. Rồi lửa cháy rần rần khắp trại, khói tỏa mù trời. Đâu đâu cũng có lửa.
Chúng hoảng hốt tìm đường chạy, chen lấn dầy xéo lẫn nhau chết như ngã rạ.
Như gần, như xa, trống thúc liên hồi lẫn với tiếng quân reo, ngựa hí làm cho những tên bình tĩnh nhất cũng phải bối rối.
Chúng đành hè nhau chạy về trại cũ.
Chết cha! Trại cũ cũng bị đốt rồi. Con đường cái lớn uốn mình chạy về phương Bắc đang quằn quại trong một biển lửa. Xa xa, qua ánh sáng bập bùng, chúng thấy thấp thoáng như còn có thiên binh vạn mã đang đón chờ những tên liều mạng nhất.
Không còn đường sống nào khác hơn là hai con đường nhỏ lượn dọc theo hai cánh rừng bát ngát chạy dài theo hai bên con đường cái.
Chúng đâu đã được buông tha. Hai toán chạy tẽ ra hai ngả được nửa chừng đều được tiếp đón bằng những tiếng địa lôi nổ long trời cắt mỗi toán ra làm nhiều khúc.
Giặc kinh hãi như phải đối phó với một đạo quân nhà trời chỉ có lửa cháy, tiếng nổ, tiếng reo mà, ô hay! Không thấy người ngựa sấn ra chẹn đường.
Đạo quân nhân từ của họ Đoàn chả phải đâm chém ai cho tổn đức hiếu sinh. Hai nghìn người chia nhau đi thu thập những xe lương và trói gô những tên giặc bị thương cũng đủ mệt.
Tù binh cháy người phỏng mặt được lôi vào trong ải như những xâu ếch thật dài.
Đoàn Phong điểm binh thấy thiếu mất một người: cậu Út!
- Chết rồi!
Huy hoảng hốt la lên, rồi không đợi lệnh cha, thót lên yên bay về phía ven rừng mé tả.
- Cẩn thận nhé, con!
Đoàn Phong cũng nóng lòng không kém cậu con trai, hét lên dặn vói theo. Trong thâm tâm, ông tiếc vì thân làm chủ tướng không thể tự mình đi tìm con của bạn được.
Ông lo. Nếu con bé sơ xẩy chuyện gì thì mình còn mặt mũi nào trông thấy hai bác đồ nữa.
Con trai ông còn lo hơn. Nếu chẳng may Tường Vân có mệnh hệ nào thì đời sống của mình còn chi là sinh thú!
Con ô truy thuộc lối cứ chạy bừa trong khi chủ nó hú và la lên từng chập:
- Tường Vân!... Tường Vân!...
Cô gái hiếu thắng và quá thông minh này đã ước lượng kết quả trận hỏa công từ khi quân Tầu chưa lấy trại. Tù binh ta sẽ có rất nhiều, nhưng chỉ toàn binh lính. Là vì khi ngọn lửa bốc lên, lũ tướng tá có ngựa sẽ xông ra chạy trước tháo thân, mặc cho những tên quân lết bộ tụt lại sau, những đứa khỏe đạp lên mình những đứa yếu hơn mà tìm đường sống.
Nàng nổi hứng, thích bắt mấy tên tướng càng có tên tuổi càng hay để cho đoàn tù binh có đủ bộ cả quân lẫn tướng.
Tường Vân phóng ngựa đi sâu vào đất địch và thấy ở đàng trước mặt ba tên tướng giặc cưỡi ngựa đi lạc lõng sau đám quân thua.
Nàng tế ngựa đuổi theo.
Khi gần kịp, nàng tra gươm vào vỏ, lấy cung ra và, trước khi buông tên, cất tiếng gọi cho chúng quay mặt lại.
Ba tên kia hết hồn toan phóng chạy.
Đúng lúc đó, con ngựa nàng cưỡi khuỵu hai chân trước, hất tung nàng xuống đất. Tuy hoảng kinh quá sức, nàng vẫn còn đủ bình tĩnh để lăn mình đi mấy vòng đến một gốc cây lớn làm điểm tựa. Sờ đến bao tên thì ôi thôi, bao nhiêu tên ở trong bao đã rơi hết nhẵn. Cả đến mũi tên cầm sẵn nơi tay cũng văng đâu mất.
Mặc kệ! Nàng huýt gió gọi con vật thân yêu đang khệnh khạng đứng dậy và tiến sang bên kia đường gặm cỏ. Nàng định chạy nhanh ra nhặt vội mấy mũi tên trước khi nhẩy phóc lên yên. Ối chao! Một chân đã sai khớp mất rồi. Không chạy được, không đi được. Tính sao đây?
Lục trong túi còn độc có hai đồng tiền, nàng lấy ra hờm sẵn trong tay.
Ba tên tướng giặc mừng rơn khi thấy đối phương thất thế. Chúng líu lo bảo nhau quay ngựa lại.
Chắc mẩm phen này lập được chút công trong khi toàn quân thua sát ván, chúng hè nhau xông tới.
Dưới ánh trăng bàng bạc, một vật tròn lấp lánh bay vút tới, lẹ như một vì sao đổi ngôi. Tên giặc đi đầu đã hứng gọn đồng tiền Hồng Đức ngay giữa trán. Y la lên một tiếng thảm thiết trước khi ngã quay xuống dưới chân ngựa.
Nghe tiếng la của đồng bọn, tên giặc tới sau hoảng hốt nằm rạp trên mình ngựa, vừa may tránh được đồng tiền thứ hai bay tới đánh văng chiếc mũ đâu mâu của y xuống đất.
Sợ ám khí còn bay tới nữa, hai tên sống sót bảo nhau lùi ra xa và tìm cách hạ đối phương hiện vẫn chưa đứng lên được.
Ngay lúc ấy, từ xa có tiếng vó ngựa phi nhanh vọng lại. Rồi có tiếng hú. Có tiếng kêu văng vẳng: Tường Vân! Tường Vân…
Đúng là tiếng gọi của Đoàn Huy.
Nấp sau gốc cây, Tường Vân, lòng mừng khấp khởi, hú lên đáp lại.
Chột dạ, hai tên giặc chia việc thật nhanh: Mỗi tên chỉ rình nhắm bắn một bên gốc cây thôi.
Tường Vân, chân hãy còn đau, chưa nghĩ ra cách nào lượm được một mũi tên làm vốn.
Xa xa, bóng ngựa ô sải dưới ánh trăng gấp rút.
Nguy cơ đã tới với hai tên tướng nhà Minh. Chúng phân công lại. Xuất kỳ bất ý, mỗi tên phải bắn hạ một người.
Con ngựa ô tế đến mỗi lúc một gần. Tường Vân đã trông thấy hình dáng bạn mình rạp đầu trên bờm ngựa, tay trái hờm sẵn một cây cung.
Khi hai bên vừa thấy rõ mặt nhau thì “tách” một tiếng, ba cây cung cùng bật.
Một tiếng rú vang lên, một tên giặc ngã quay xuống đất với một mũi tên cắm ngay giữa mặt. Đoàn Huy bắn nhanh và mạnh hơn y.
Và cũng nhanh hơn y, Huy đã nghiêng đầu tránh được mũi tên của địch.
Nhanh trí và nhanh tay không kém, Tường Vân nghiêng mình bắt gọn mũi tên bắn sát mặt nàng và, trong chớp mắt, nàng bắn trả về cho chủ nó.
Khi gã này gục xuống với mũi tên cắm ngập nơi vai, y không ngờ bị hạ bởi mũi tên của chính mình.
Thấy bạn vẫn ngồi bệt dưới gốc cây, Huy hoảng hốt:
- Tường Vân có sao không?
- Không sao cả. Chỉ trật khớp xương tí tẹo thôi.
Quỳ xuống đất, Huy nâng niu bàn chân ngọc trước khi thình lình nắn lại khớp xương.
- Rồi!
- Cảm ơn anh!
Nàng đứng dậy, ửng hồng đôi má. Nhưng nàng vẫn không quên nhắc:
- Bắt sống được có mỗi một tên. Chả biết thằng này làm đến chức gì mà bắn quá dở. A, còn ba con ngựa nữa, bỏ uổng! Anh Huy lo thu thập tên tù binh giùm tôi nhé.
*
Đoàn quân rầm rộ trở về xuôi với số tù binh đông hơn số người chiến thắng. Đâu đâu họ cũng được tiếp đón như những vị anh hùng.
Cụ già xứ Lạng cười khoái trá, nhe hai hàng lợi đỏ hồng:
- Lão thức suốt đêm, lắng nghe tiếng nổ ran ngoài quan ải. Y như tiếng pháo Tết âm vang rền xứ Lạng. Tảng sáng hôm sau lão đã mạn phép uống mấy chén rượu mừng với mấy ông bạn già trong xóm.
Huy nhắc cha khi đoàn quân về đến địa phận Bắc Giang:
- Bác đồ dặn thầy thành công rồi thì phải rút lui ngay.
- Thầy nhớ rồi. Giao trả quân xong, thầy sẽ cáo lão về vườn lập tức.
- Thưa thầy, Tường Vân xin về trước kẻo hai bác mong. Thầy cho con về thăm hai bác luôn thể.
- Ừ. Rồi thầy cũng về thăm hai bác. Ở chơi mấy hôm, cha con mình cùng về quê luôn thể.
Trên đường về, đôi bạn trẻ buông lỏng tay cương giữa những phong cảnh họ thấy đẹp như gấm vóc.
Tường Vân cắc cớ hỏi bạn:
- Về quê tôi, anh thích làm gì trước nhất?
- Việc thứ nhất ấy à? Tôi xin bái yết đền thờ Đức Khai Quốc và chiêm ngưỡng thần tượng của Ngài. À, Tường Vân nhỉ, không phải ngày giỗ của Ngài, vào lễ có được không?
- Được chứ. Ông từ giữ đền là ông chú của tôi mà. Vào lễ lúc nào cũng được.
- Nghe nói tại chính điện, có tượng mấy tên tướng Tầu quỳ ở ngay thềm. Giống như tượng Tần Cối quỳ trong đền thờ Nhạc Phi. Có phải vậy không?
- Đúng đấy. Nhưng khác có một điều là người ta chỉ lấy tay đập khẽ vào đầu mấy pho tượng đá ấy mà cười chơi, chứ chả ai thèm đánh bằng dùi sắt như người Tầu đánh vào đầu tên Tần Cối.
Huy thích chí cười vang:
- Thú nhỉ!
Tường Vân hỏi tiếp:
- Còn việc thứ hai?
- Việc thứ hai là tôi sẽ xin làm học trò Tường Vân về môn thổi sáo.
Cô gái cười chúm chím, đôi má hây hây.
- Chi vậy?
- Để sau này về quê, khi nào Hồng Thị nhớ Nhị Khê, tôi sẽ gửi lòng theo tiếng sáo.
Bữa nọ được nghe Tường Vân thổi sáo, tôi say mê tiếng trúc tuyệt vời của Tường Vân.
Trên trời, mấy cụm mây trắng bay lơ lửng. Vi vu, có tiếng sáo diều.
Thoắt gần, thoắt xa, tiếng sáo có lúc như vương vấn trong mây, có lúc lâng lâng, thanh thoát.
CHÂN PHƯƠNG
22-9-1973
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận