1. Động Dát Tiên:
Truyền thuyết động Dát Tiên
Theo truyền thuyết từ rất lâu trước đây, nơi này là một vùng rừng rậm nguyên sơ, mùa hạ, thông xanh hoa biếc che lấp cả mặt trời, khắp nơi hoa dại nở rộ; mùa đông tuyết trắng phủ kín núi rừng, một vùng trời màu bạc, giữa cánh đồng tuyết đủ loại động vật tự do chạy băng băng, người Ngạc Luân Xuân lấy săn bắn mà sống, đời đời ở đây sống cuộc sống hoà bình hạnh phúc. Không ngờ, có một ngày đột nhiên xuất hiện một ác ma ăn thịt người khổng lồ, khuôn mặt dữ tợn. Nó sống ở một sơn động ở đỉnh núi, rình rình, chỉ cần phát hiện thợ săn tiến vào rừng rậm, liền vươn ma chướng hại nguời, ngươi Ngạc Luân Xuân bị hại nhiều vô số. Người Ngạc Luân Xuân dũng cảm vì tiêu diệt ác ma này, đã nhiều lần kêu gọi thanh niên thợ săn lên núi đánh nhau với nó, nhưng đều vì yêu thuật lợi hại của nó mà thất bại. Người Ngạc Luân Xuân vẫn chưa đánh mất dũng khí và lòng tin, vẫn đấu tranh rất nhiều năm, cuối cùng cảm động đến Dát Tiên trên trời. Dát Tiên tỷ thí với ác ma, trước tiên để ác ma dịch tảng đá trước cửa động, kết quả ác ma thua, bọn họ lại so tiễn pháp, Dát Tiên dùng đá bắn trúng tâm một vòng tròn khổng lồ. Ác ma thấy bản lĩnh của Dát Tiên mạnh hơn mình rất nhiều, liền bỏ trốn mất dạng. Mọi người sợ ác ma quay lại rừng rậm, dựng một pho tượng đá Dát Tiên cầm cung tên trong tay trong cái động nó từng ở. Quả nhiên, ác ma ba lần nhìn qua biển, thấy Dát TIên sừng sững đứng đó cũng không dám trở về. Từ đó về sau, người Ngạc Luân Xuân tự do săn bắn, sinh hoạt ở rừng tùng núi Đại Hưng An. Để tưởng niệm Dát Tiên vì dân trừ hại, mọi nguời đổi tên động mà ác ma từng ở thành động Dát Tiên, đem ngọn núi có tảng đá có lỗ thủng kia gọi là núi Quật Lung.
Câu chuyện này về cơ bản giống với lời bạn Tô Bất Đạt kể, tuy nhiên ta rất thích cái màn “xuyên tạc” truyền thuyết của Cuồng tử, nó làm mình liên tưởng đến SM, cường hào đoạt thủ =))
2. Một ít về tộc Tiên Ti:
Tộc Tiên Ti là một chi của Đông Hồ, cư ngụ ở ngọn núi gọi là núi Tiên Ti ở Mạc Bắc. Là một trong 3 dân tộc cổ ở phía Bắc Trung Quốc. Sự hình thành bộ lạc Tiên Ti tương đối phức tạp, ngoài phần lớn là một chi phân ra từ bộ lạc Đông Hồ, còn có hậu duệ của bộ lạc Sơn Nhung thời Xuân Thu. Trước đây bọn họ du mục săn bắn ở trung bộ và bắc bộ núi Đại Hưng An, Trung Quốc.
Cuối thời Đông Hán, Tào Tháo đại phá Ô Hoàn, thì có một bộ phận nhập cư vào vùng Hoa Bắc Trung Quốc. Đây là thuỷ tổ của Mộ Dung Tiên Ti, trừ bộ lạc này ra, còn có một chi cư ngụ ở vùng núi Đại Hưng An phía bắc Trung Quốc (bây giờ là thành phố Hô Luân Bối Nhĩ khu tự trị Nội Mông Cổ đông bắc Trung Quốc), bộ lạc này gọi là Thác Bạt Tiên Ti. Tộc Tiên Ti lấy nơi cư ngụ là núi Tiên Ti mà đặt tên.
Căn cứ theo khảo chứng: thời kỳ Chiến quốc, tộc Tiên Ti và bộ lạc Ô Hoàn đều thuộc liên minh bộ lạc Đông Hồ, sau đó lần lượt trở thành một nhánh của Đông Hồ, ngôn ngữ và tập tục giống như Ô Hoàn. Giao thời Tần – Hán, Hung Nô đánh Đông Hồ xong, chúng lại chia các tộc ra, khôi phục lại tộc Tiên Ti và Ô Hoàn. Từ thế kỷ thứ hai, bộ lạc Tiên Ti không ngừng nam tiến và tây tiến, chiếm giữ vùng đất cũ của Hung Nô, phân bố đông tới Liêu Đông, tây tới Lũng Hữu.
Các chi bộ trong bộ lạc Tiên Ti phát triển cũng không giống nhau, đối với bộ lạc Tiên Ti nam tiến tây tiến, đồng hoá với Hung Nô, Đinh Linh, Cao Xa, Ô Hoàn, và người Hán, cho nên hình thành rất nhiều tộc mới, cơ bản có thể chia thành Tiên Ti phía đông, Tiên Ti phía bắc, và Tiên Ti phía tây. Tiên Ti phía đông trải qua thời Đàn Thạch Hoè, có thể sánh bằng liên minh bộ lạc mà phát triển thành các bộ phận Mộ Dung thị, Đoàn thị, Vũ Văn thị; Tiên Ti phía bắc chủ yếu là Thác Bạt Tiên Ti ở núi Đại Hưng An; Tiên Ti phía tây có Ngốc Phát thị, Khất Phục thị cùng Cam Túc, Thanh Hải Thổ Dục Hồn hợp thành.
Thác Bạt Tiên Ti sau khi nam tiến vào đại thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ, một trăm năm sau tiến vào phía bắc Hoa Bắc, ở Đại Đồng tỉnh Sơn Tây bây giờ xây dựng đại quốc, sau đổi thành Nguỵ, sau khi vào Trung Nguyên, xây dựng vương triều Bắc Nguỵ, thôn tính các dân tộc thiểu số phương Bắc.
Các nhà khảo cổ Trung Quốc năm 1980 phát hiện thạch động cổ xưa ở khu rừng núi Đại Hưng An trong biên giới thành phố Hô Luân Bối Nhĩ khu tự trị Nội Mông Cổ, hơn nữa trên vách động còn khắc chúc văn tế tự Bắc Nguỵ Thái Bình chân quân tứ niên (năm 443). Phát hiện này kết thúc sự tranh luận của giới sử học từ trước tơi nay, phá giải vấn đề nguồn gốc của tộc Tiên Ti.
Núi Đại Hưng Han mỹ lệ màu mỡ, thời cổ đại gọi là Kim Sơn, kéo dài từ đầu bắc sa mạc Hà Tây tới lòng chảo Tây Lạp Mộc Luân khu tự trị Nội Mông Cổ, toàn bộ dài 1400 km, rộng 150-300 km, từ trên cao nhìn xuống, giống như con con rồng dài xanh lục, ho cỏ um tùm, rừng rậm tốt tươi, sắc xanh và mùi hương thơm ngát của cây cối bao phủ khắp nơi, là khu rừng nguyên sinh lớn nhất Trung Quốc, diện tích khoảng 28 vạn km2.
Thạch động trong khu rừng núi Đại Hưng An, tên là động Dát Tiên. Quy mô ngoài động cũng không tính là lớn. Động sâu 90 thước, rộng 20 thước, cao 20 thước. Động nằm ở khu rừng thượng du sông Lặc Nã, cách Ngạc Luân Xuân thành phố Hô Luân Bối Nhĩ, Nội Mông Cổ 9km về hướng tây bắc, xung quanh động vẫn còn được bao phủ bởi rừng rậm nguyên sinh.
Trên vách động Dát Tiên có một khối đá khắc chúc văn, là Bắc Nguỵ Thái Vũ hoàng đế Thác Bạt Đảo phái đại thần Lý Sưởng, mang theo tế phẩm đến đây tế tổ. Toàn bộ chúc văn gồm 19 dòng 201 chữ.
Phía trước thạch động có một bãi đất bằng phẳng, dân tộc Tiên Ti trước đây trồng trọt trên bãi đất này. Xung quanh thạch động là rừng rậm nguyên sinh tươi tốt. Giữa núi có khe suối, giống như tiếng đàn, trầm bổng bên tai không dứt, thực sự là sơn thuỷ như mộng, giống như tiên cảnh.
“Nguỵ thư” viết, tù trưởng Tiên Ti Thác Bạt bộ Thác Bạt Mao, từng thành lập 26 bộ tộc, trong đó gồm 99 thị tộc liên minh, Mao được cử làm đại tù trưởng. Khi triều đình Đông Hán đánh bại Bắc Hung Nô, tù trưởng Thác Bạt bộ Thác Bạt Cật Phần nam tiến, trải qua “cửu nan bát trở”, liên tiếp chém giết, ra khỏi thâm sơn cùng cốc, vứt bỏ động Dát Tiên cổ xưa. Dẫn bộ chúng tiến vào vùng đất du mục của Bắc Hung Nô cũ. Cật Phần lập được công lớn, được hưởng uy vọng cao nhất bộ lạc. Con trai Cật Phần là Thác Bạt Lực Vi sau khi thôn tính một Lộc Hồi bộ lớn mạnh, các bộ tộc khác đều quy thuận Thác Bạt Lực Vi, trong khoảng thời gian rất ngắn, Thác Bạt Lực Vi trở thành đại tù trưởng chỉ huy hơn20 vạn kỵ binh, di chuyển về phía đại thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ.
Thác Bạt Lực Vi giết người đứng đầu Bạch bộ, chư bộ lo sợ, Thác Bạt bồ từ đó chính thức giành được quyền chỉ huy, Lực Vi cũng kế thừa quyền làm đại tù trưởng. Sau khi Thác Bạt Lực Vi chết, trải qua nội chiến, đến năm 295, con trai Lực Vi là Lộc Quan kế thừa ngôi vị đại tù trưởng. Thuộc hạ của Lộc Quan là Y Lô dẫn binh đi mở rộng lãnh thổ về phía tây, xây dựng Nhạc thành. Đúng lúc này là loạn tám vương thời Tây Tấn, được thương nhân người Hán trợ giúp, năm 308 Y Lô thống lĩnh ba quân, năm 314 Y Lô lên làm đại vương, lập đại quốc. Năm 338, cháu của Lực Vi là Thập Dực Kiền tiếp nhận vị trí đại vương, bắt đầu lập niên hiệu, thiết lập đủ loại quan lại. Cháu Thập Dực Kiền là Thác Bạt Khuê năm 386 lại xây dựng đại quốc, đại phá Hung Nô, thế lực từ từ lớn mạnh, năm 398 định đô ở Bình thành, năm kế tiếp xưng vương, tức Bắc Nguỵ Đạo Vũ Đế.
Khụ, Đoàn thị, Mộ Dung thị, ko biết có phải đúng dòng họ 2 bợn chẻ trong Thiên Long bát bộ ko =))
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận