Đêm ấy không có trăng.
Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất biến thành một khối đen sì.
Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi. Chín mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch hết thảy điên cuồng lồng phách như muốn lia những bó đuốc nứa nhảy vọt lên từng mịt mù. Quang cảnh trường thi hôm nay rộn ràng hơn mấy hôm trước.
Dưới lớp mái ngói của nhà Thập đạo, mũ áo thấp thoáng hiện trước bóng đèn lồng.
Trong mấy gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, trống cái đi đôi với thanh la, chốc chốc lại đưa ra những tiếng oai nghiêm trịnh trọng.
Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín lấy khu nền tường, đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của quan giám trường đề điệu diễu từ mặt nọ đến mặt kia. Tiếng nhong nhong của nhạc ngựa hòa với tiếng dình dình của trống quân, càng giúp cho cuộc tuần phòng thêm vẻ cẩn mật.
Trên nếp cổng tiền, một bức hoành biển nghiêng mình nằm ghếch đầu trên đôi đồng trụ, chiều dài thườn thượt không kém một chiếc thuyền thoi. Sóng biển phủ một bức diềm nhiễu điều, chính giữa kết thành một hoa sen to bằng cái mâm, hai đầu thì hai trái găng lớn như cái thúng lủng lẳng đu ở cạnh cột. Lòng biển, bốn chữ "Tân hưng thịnh điển" song song đứng ngang một hàng, nét vàng lóng lánh trong nền sơn son như muốn cười với ánh lửa của trời tối.
Từ mật tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến mặt tiền, bốn cửa của bốn vi giáp, ất, tả, hữu đều thênh thang.
Những cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người đều ngoảnh bộ mặt "dán giấy" ra đường, như đương ngóng các thầy sĩ tử.
Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cũng doãi bốn chân và đứng ngất ngưởng ở ngoài các cửa như đương đợi các ông khảo quan.
Trước hai cửa của hai vi tả hữu, cũng như trước hai cửa của hai vi giáp ất, toàn lính thể sát đo nhau đứng chực ngoài cửa với những dáng bộ rất nghiêm trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ ngọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu. Những sợi dây tòng của chiếc tay thước khảm chai, bông bênh rủ xuống miếng ban kiên sặc sớ.
Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào bắt đầu nổi ở nẻo xa xa. Rồi nó dần dần gần lại. Rồi nó dần dần rõ thêm. Rồi nó dần dần đưa đến những đám đèn đuốc lập lòe như đám ma chơi. Học trò các nơi tấp nập kéo đến cửa trường.
Gió bấc thổi càng dữ.
Những cây đình liệu cháy càng nỏ.
Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người chật như đám hội.
Có người tóc đã bạc phơ. Cũng có người hồng mao còn ngất nghểu trong vành khăn nhiễu. Có người không giấu sự nghèo túng, thân hình gầy guộc so sởi trong mảnh áo đơn. Cũng có người như muốn khoe vẻ phong lưu, quanh mình quấn mấy lần áo bông sù sù, hai hàm răng còn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu khuỷu tay còn đủ sức thích bên kia gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều chiếu đều bị lôi sềnh sệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu.
Vẻ lo ngại hiện đầy trên bộ trán nhăn nheo ấy là kẻ lảo đảo trường ốc.
Còn nữa, và còn nhiều nữa. tả không thể hết.
Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến của vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người cùng một lối trang sức như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều; sườn kia, thì bó áo tơi và cuộn áo lều, hoặc một đôi chiếu cói; trên ngực, quả bầu be và chiếc ống quyển; dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật, nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thảy xúm lại và đu cả lên cái cổ yếu ớt của các ông thư sinh. Hình như trời cũng bắt tội nhà nho, trước khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm việc của bọn phụ trạo.
Kẻ chen vào người đẩy ra, kẻ du lại, người ẩn lại dưới ánh lửa sáng, đám người dồn dập bị xô đẩy cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng hỏi nhau, tiếng chào nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng rầm rầm nói chuyện với nhau. Các thứ tiếng ấy hợp lại, làm cho bốn khu cửa trường, ầm ầm như bốn cái chợ.
Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy hết già một nửa. Tàn nứa đỏ ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp vùng trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu người, xuống quãng đất không. Xuống những nơi ở tít xa xa, nếu nó không bị tắt ở trong bóng tối.
Thình lình trong nhà Thập đạo, kiểng đồng gióng với trống khẩu, dõng dạc đánh luôn ba hồi. Các bóng đèn lồng nhất tề lay động. Các áo thụng lam, các mũ cánh chuồn đồng thời rộn rịp như sân khấu rạp tuồng.
Sau khi bốn ông ngự sử đã đem chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh, các ông khảo quan tức thì cắt nhau mỗi người đi mỗi ngả. Cũng như mọi khoa, hai ông phân khảo phải coi hai cửa tả hữu, ông phó chủ khảo được theo chiếc biển "phụng chỉ" ra cửa vi ất. Còn cửa vi giáp thuộc quyền ông chánh chủ khảo và lá cờ "khâm sai" của nhà vua ban.
Dứt mấy tiếng yết hậu của trống khẩu và kiểng đồng, hai hàng đèn lồng bắt đầu ở nhà Thập đạo từ từ tiến ra. Rồi đến một đôi lọng vàng cung kính rước lá cờ khâm sai đi trước. Rồi đến ông chánh chủ khảo và bốn chiếc lọng xanh khúm núm theo sau.
Bộ dạng quan chánh chủ khảo mới oai làm sao?
Cái bối từ hình con công, cái vành đai đột chỉ vàng. cái gấu áo thêu thủy ba. cái xiêm xanh viền chân chỉ hạt bột, và đôi ủng đen có đôi bướm bạc long lanh, bấy nhiêu thứ đó hợp lại với cây hốt ngà cầm ở trước ngực và chiếc mũ gấm xòe hai cánh ra ngoài hai tai, đủ làm cho ngài giống hệt những quan phường chèo nếu ngài có bộ râu dài như họ. Đám rước ra đến cửa vi, người lính cầm cờ khâm sai lễ phép leo lên chiếc ghế tréo và cắm cán cờ vào cái lỗ thủng sau ghế. Quan chánh chủ khảo tạm giữ cây hốt bằng một tay trái để lấy tay phải vịn vào chân ghế tréo. Rón rén bước qua các bực, và trèo lên ghế, ngài sẽ vén cái vạt sau của tấm phẩm phục, rồi ngồi vào giữa mặt ghế. Cây hốt lại được trở lại phía trước mặt ngài với sự nâng niu của hai bàn tay súng sính trong đôi tay áo rộng như cái cống. Cả sáu chiếc lọng lần lượt nhô lên trên ghế. Những cái xanh che quan chủ khảo. Còn những cái vàng thì che lá cờ khâm sai.
Tiếng ồn ào ở khu cửa trường tự nhiên im bặt.
Mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan.
Thình lình ở trên lưng trời có tiếng ấm óe:
"Báo oán giả tiên nhập! Báo ân giả thứ nhập? Sĩ tử thứ thứ nhập!" Hồi loa dữ dội như muốn phá tan cái bầu tịch mịch, làm cho mọi người đều phải ngơ ngác. Dứt tiếng gầm hét, người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo theo miệng một người lại phòng cũng đứng chỗ đó với một cuốn sổ trong tay chìa loa gọi tên một người học trò.
Một tiếng dạ bật lên trong đám đông.
Một chàng thiếu mến, với cái dáng bộ liều chết, cố lách được qua " vòng vây", để đệ các đồ kềnh càng đến khu đất trước ghế tréo của quan chủ khảo.
Toán lính thể sát bắt đầu làm việc.
Họ giở bó áo tơi và cuốn áo lều. Họ nhòm những cái "cái chõng", chân chõng. Họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước. Họ lần dải lưng và vuốt các gấu áo, gấu quần của chàng thiếu niên. Họ cởi tung cả bộ gọng lều. Rồi họ lục soát đến cái tráp sơn của chàng ấy đeo ở trước rốn.
Ngoài một hộp mực, vài cái bút, vài cây sáp, một cái dùi vở, một tập giấy bản và mấy cái bánh giầy, mấy cái bánh giò, một nắm cơm, vài miếng chả trâu, vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi.
Chàng thiếu niên được phép lĩnh quyển của người lại phòng, cẩn thận cuốn lại, bỏ vào chiếc ống quyển đeo ở trước ngực, rồi tung tăng đi vào trong trường với các đồ đạc xúc xích bám quanh vai, quanh cổ. Đến lượt người khác theo tiếng loa gọi tiếng vào.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận