Clara bước vào căn hộ của cô nằm trong khu Notting Hill. Cô không bật đèn lên mà lặng lẽ đi dạo trong bóng tối. Cô đưa tay khẽ lướt trên khung cửa ra vào, thả nhẹ trên thành chiếc tràng kỉ, se sẽ vuốt rìa chiếc chụp đèn phố vắng vẻ trong ánh đèn mờ và thả áo khóac rơi xuống sàn. Cô gỡ dây buộc chiếc váy ngắn và cởi áo. Trên mình không còn một mảnh vải, cô với tay lấy chiếc khăn choàng vắt trên thành chiếc ghế bành rồi quấn vào người. Cô liếc nhanh về phía điện thoại , thở dài rồi đi vào phòng ngủ.
* * *
Jonathan rời khỏi khách sạn Savoy từ sớm tinh mơ. Anh đáp chuyến bay đầu tiên đi Luân-đôn. Ngay khi máy bay vừa hạ cánh, anh chạy thật nhanh trong hành lang dài vô tận của sân bay Heathrow, vội vã đi qua cửa hải quan và lại tiếp tục chạy. Ra đến thềm phòng chờ, anh nhìn hàng người đợi taxi dài dằng dặc, quay lại và lao về phía ga tàu tốc hành. Chuyến tàu tốc hành Heathrow sẽ tới trung tâm thành phố sau khoảng 15 phút nếu như anh bắt kịp chuyến sắp tới, anh sẽ có đủ thời gian để biến ước muốn đầu tiên hiện ra trong tâm trí mình khi thức dậy thành hiện thực.
Anh thở hổn hển khi chạy đến cầu thang máy sâu hun hút dẫn vào lòng đất. Jonathan nhảy xuống bốn bậc một , trượt cả đoạn dài trên nền sàn lát đá hoa khi đến một lối rẽ và chạy vào dãy hành lang dài gần như không thấy lối ra. Những tấm biển báo bằng đèn điện treo gần trên trần ở những khoảng cách đều đặn thông báo chuyến tàu sắp tới đi Luân-đôn sẽ khởi hành trong 2 phút và 27 giây nữa. Vẫn chưa nhìn thấy thềm đợi tàu, Jonathan tăng tốc chạy thật lực.
Dãy hành lang kéo dài như vô tận , một hồi chuông dài đổ dồn, đồng hồ bắt đầu đếm ngược những giây cuối cùng, đèn báo hiệu nhấp nháy liên hồi trên những tấm biển sáng điện. Anh vét cạn những nỗ lực cuối cùng. Cánh cửa toa tàu bắt đầu khép lại khi anh chạy tới thềm ga, Jonathan vung tay về phía trướcvà lao mình vào trong toa. Chuyến tàu tốc hành Heathrow lúc 8 giờ 45 phút sáng bắt đầu chuyển bánh. 15 phút hành trình cho phép anh dần lấy lại hơi thở bị đứt quãng. Ngay khi tàu vừa dừng máy, Jonathan chạy băng qua ga Paddington và nhảy vội lên một chiếc ta-xi. Đúng 9 giờ10 phút sáng, anh ngồi vào bàn trong quán cà phê đối diện nhà số 10 phố Albernarle, 5 phút sau Clara tới. Ai đó đã từng nói, để biết được thói quen của một người, chỉ cần bỏ thời gian quan sát sinh hoạt của người ấy?
Không thể dứt khỏi một bài báo đang đọc dở, Clara đi về phía quầy bar theo thói quen. Cô gọi một cốc capuccino mà không hề ngước mắt nhìn lên, để một đồng xu lên quầy tính tiền, cầm lấy cốc nước của mình và đến ngồi trên chiếc ghế quầy bar nằm sát cửa kính.
Cô đưa cà phê lên miệng đúng lúc một chiếc khăn mùi xoa trắng hiện ra trước mắt. Cô không ngẩng lên nhìn ngay , rồi chợt cảm thấy thật đáng tiếc nếu phải kìm mình không bày tỏ niềm vui, cô quay lại và đã muốn ôm chầm lấy Jonathan. Rồi ngay lập tức ngồi lại ngay ngắn trên ghế tìm cách giấu khuôn mặt và sự lúng túng của mình sau tách cà phê.
-Tôi có rất nhiều tin vui, Jonathan nói.
Họ đi về phòng tranh và Jonathan kể cho cô nghe gần như mọi chi tiết về chuyến đi của anh đến nước Ý.
-Tôi không hiểu, Clara nói, vẻ nghĩ ngợi. Trong lá thư viết cho một vị khách hàng, Ngài Edward đã tự khen ngợi mình về việc gửi Vladimir đi Florence , vậy thì tại sao ông ta phải nói dối?
-Tôi cũng đã tự mình đặt cho mình câu hỏi đó.
-Khi nào thì anh có thể tiến hành so sánh những mẫu đã tìm được với bức tranh?
-Tôi phải liên lạc với Peter, để cậu ta giới thiệu tôi với một phòng thí nghiệm nào đó ở Anh.
Jonathan nhìn đồng hồ đeo tay, đã gần giữa trưa theo giờ Luân-đôn và gần 7 giờ sáng bên bờ biển phía đông nước Mỹ.
-Có thể giờ này cậu ấy còn chưa dậy !
* * *
Peter quờ tay tìm xem từ đâu phát ra tràng âm thanh khó chịu khiến anh không thể tiếp tục giấc ngủ. Anh gỡ băng che ánh sáng ra khỏi mắt, với cánh tay qua khuôn mặt ngái ngủ của cô gái tên là Anita, nhấc điện thoại lên và gầm gừ:
-Cho dù là anh có là ai đi chăng nữa, thì anh cũng vừa để mất một người thân!
Rồi anh dập máy.
Một vài giây sau, chuông điện thoại lại reo vang, Peter chui mình ra khỏi lớp chăn dày.
-Đồ quấy rầy bướng bỉnh! Ai ở đầu dây thế?
-Tớ đây, Jonathan bình thản đáp.
-Cậu có biết bây giờ là mấy giờ không , hơn nữa hôm nay lại là chủ nhật đấy.
-Thứ 3, Peter, hôm nay là thứ 3!
-Khỉ thật, tớ chẳng còn biết gì về thời gian nữa.
Trong khi Jonathan giải thích yêu cầu của anh, Peter nhẹ nhàng lay cô gái nằm bên cạnh. Anh thì thầm vào tai Anita rằng cô phải chuẩn bị thật nhanh, anh đã bị muộn lắm rồi.
Anita nhún vai và ngồi dậy, Peter kéo lấy cánh tay cô và hôn nhẹ lên trán.-Anh sẽ chở em về nhà nếu em sẵn sàng sau 10 phút nữa.
-Cậu có nghe tớ nói không? Jonathan hỏi từ đầu dây bên kia.
-Thế cậu còn muốn tớ nghe ai nữa đây?Nhưng thôi cứ nhắc lại điều cậu vừa nói đi, ở đây vẫn còn sớm lắm.
Jonathan đề nghị bạn giới thiệu mình với một phòng thí nghiệm tại Anh.
-Muốn soi bức tranh bằng X-quang, tớ có một người bạn, cậu có thể gọi anh ta và tự giới thiệu là bạn của tớ, phòng thí nghiệm của anh ấy ở khá gần khách sạn.
Jonathan ghi vội lên giấy địa chỉ mà Peter đọc cho anh.
-Còn muốn làm các xét nghiệm hữu cơ, Peter nói tiếp, để tó gọi vài cuộc điện thoại đã.
-Tớ có thể cho cậu cả ngày, có điều tớ phải nhắc để cậu nhớ rằng, thời gian của cậu đang bị rút ngắn dần.
-Cám ơn cậu đã nhắc khi tớ vừa nhảy ra khỏi giường, tớ đã cảm thấy rõ ràng còn thiếu thứ gì đó để có thể bắt đầu một ngày tốt lành!
Peter đã gần như hoàn thành việc sắp xếp mớ tài liệu mang từ Luân-đôn về. Sau khi ngồi hàng giờ liên trong phòng lưu trữ của Christie’s, anh đã chụp được rất nhiều bài báo được viết trong thời gian Radskin sống ở nước Anh.
Sau khi đọc xong tất cả những tài liệu đó, anh sẽ viết một bài tổng hợp tất cả những thông tin liên quan đến buổi đấu giá nổi tiếng của Ngài Edward, đúng vào hôm bức tranh đột nhiên biến mất.
-Chúng ta phải tìm hiểu xem vì sao nó lại mất tích.
-Cậu làm tớ vững tâm ghê, chúng ta đã tìm kiếm điều ấy từ 20 năm nay, chắc chắn tớ sẽ thành công trong việc làm sáng tỏ bí ẩn này chỉ trong vòng 15 ngày tới, Peter chua chát trả lời.
-Cậu có nhớ anh bạn cảnh sát của cậu đã từng nói gì không? Jonathan hỏi tiếp.
-Tớ có khối bạn làm cảnh sát, cậu thử hỏi cụ thể hơn được không?
-Cái anh chàng cảnh sát sống ở San Francisso ấy!
-À, Georges Pilguez!
-Cậu đã hàng trăm lần nhắc với tớ trong quá trình chúng mình điều tra, là chỉ cần một manh mối nhỏ cũng có thể lần ra được cả một sự kiện.
-Tớ nghĩ là Pilguez còn nói gì đó hơn thế nữa cơ, nhưng tớ hiểu ý cậu. Tớ sẽ gọi lại cho cậu ,ngay sau khi thu xếp xong việc tiến hành các xét nghiệm.
Anita bước ra khỏi phòng tắm đúng lúc Peter gác máy, cô mặc một chiếc quần jean và một chiếc áo phông bó sát người, đến mức không hề cần đến bàn là mỗi lần giặt xong. Peter ngần ngừ rồi đưa tay cho cô gái để cô kéo anh đứng dậy. Ngay lập tức, cô bị kéo trở giường.
* * *
Jonathan bấm số máy mà Peter vừa đọc cho anh. Vị bác sĩ chẩn đoán hình ảnh hỏi anh về kích thước của bức tranh và đề nghị anh chờ máy.
Một lát sau ông ta cầm máy lên, Jonathan đã gặp may, ông ta còn đúng hai khung phim có kích cỡ phù hợp.
Buổi hẹn vào đầu giờ chiều. Clara và Jonathan nhìn nhau ngập ngừng rồi lao vào đóng gói bức tranh. Mặc dù đã ra sức tìm, song cũng không thể thấy cả thùng gõ lẫn xe bảo an, họ đành nhảy lên một chiếc ta-xi, đến con phố nhỏ nằm giữa góc công viên Lane và phố Green .Họ nhấn chuông, một giọng nói đề nghị khách đi lên tầng hai.Jonathan lên cầu thang trong tâm trạng hồi hộp pha lẫn tò mò, Clara theo sát sau anh.
Một nữ trợ lý khoác áp blu trắng trở ra mở cửa và dẫn họ vào phòng đợi. Một người phụ nữ mang thai đang chờ kết quả siêu âm tháng thứ 4, một chàng trẻ bị bó bột ở chân đang xem phim kiểm tra lần cuối của mình. Khi nữ bệnh nhân bị quấn băng một bên vai nghi ngờ hỏi Jonathan bị đau chỗ nào, Clara trốn sau một tờ tạp chí Times mà cô nhặt được trên chiếc bàn thấp. Bác sĩ Jack Seasel ló ra từ cánh cửa khép hờ. Ông kín đáo ra hiệu cho Jonathan và Clara. “Một ca cấp cứu”, ông làu bàu giải thích với những bệnh nhân còn lại.
-Nào, hãy cho tôi xem bức tranh tuyệt vời đó! Ông vui vẻ nói trong khi dẫn vào phòng chụp.
Jonathan gỡ những tấm chăn bọc bên ngoài và Jack Seasal, bạn của Peter và cũng là một người say mê hội họa, lặng người đi trước vẻ đẹp của Thiếu nữ áo đỏ.
Peter không hề nói quá, ông vừa nói vừa hạ mặt bàn máy chụp theo chiều ngang. Tôi đang tính sẽ sang Boston thăm cậu ta vào tháng 9 tới, chúng tôi có một hội thảo của nghành y , ông nói tiếp và giúp Jonathan đặt bức tranh vào vị trí.
Vị bác sĩ đánh dấu khu vực chiếu bằng bút dạ. Bằng những động tác tự tin, ông ta nhét khung phim chuẩn bị dùng xuống bên dưới mặt bàn, điều chỉnh máy cho thẳng góc với bề mặt bức tranh và đưa cho hai vị khách hai chiếc tạp dề dát chì, Clara và Jonathan lùi lại sau lớp kính bảo vệ. Bác sĩ Seasal kiểm tra lại máy móc một lần nữa rồi cũng lùi lại bên cạnh chỗ họ đứng. Ông nhấn nút. Những chùm tia quét trên từng lớp bề dày cuả bức tranh để tái hiện trên tấm phim phủ hóa chất một vài bí ẩn được che giấu trong đó.
-Nín thở nhé, tôi chuẩn bị chụp lần thứ 2, ông bác sĩ vừa nói vừa thay cuốn phim.
Ông gỡ một tấm phim chụp xương đùi và một tấm phim chụp phổi bên phải đính trên tấm bảng lắp đèn huỳnh quang, rồi thay hai tấm vừa tráng vào đó. Bản chụp bức tranh của Vladimir hiện lên trong suốt. Đối với tất cả các chuyên gia hoặc các nhà phục chế, chụp một bức tranh quả là giây phút vô cùng đặc biệt. Những tia X thể hiện thấu cả những phần không nhìn thấy được của tác phẩm; chúng cung cấp cho Jonathan những thông tin vô cùng quý giá về chất liệu tấm toan mà Vladimir đã sử dụng. Bằng cách so sánh những tấm phim này với các bức tranh khác của danh họa, anh có thể xác định tấm toan được dùng để vẽ bức tranh Thiếu nữ áo đỏ có cùng kiểu dệt với những tấm toan mà Radskin sử dụng trong thời gian sống ở Anh.
Nhìn kỹ tấm phim chụp, Jonathan chợt lờ mờ phát hiện ra điều gì đó:
-Bác sĩ có thể tắt ánh sáng trong phòng đi được không? Anh thì thầm.
-Đây đúng là những phim chụp duy nhất mà tôi không thể đọc kết quả, Jack Seasal vừa nói vừa lại gần công tắc đèn, song ít nhất tôi cũng mong anh hài lòng về chất lượng các bản chụp.
Gian phòng chìm trong bóng tối, chỉ còn luồng ánh sáng duy nhất phát ra từ bảng đèn huỳnh quang trên tường. Tim của Clara và Jonathan bắt đầu đập cùng một nhịp rộn ràng. Trước cặp mắt sửng sốt của hai người, ở mỗi bên Thiếu nữ áo đỏ hiện lên một lọat những kí tự được viết bằng bút chì.
-Cái gì thế này, ông ta muốn nói gì với chúng ta?
-Tôi chỉ thấy một loạt chữ số và vài chữ cái viết hoa, Clara trả lời bằng một giọng ngạc nhiên không kém.
-Tôi cũng vậy, song nếu tôi có thể xác minh đó là chữ viết của ông ta, thì coi như mình đã tìm được bằng chứng, Jonathan thì thào.
Bác sĩ Seasal khẽ hắng giọng sau lưng họ. Trong phòng đợi , số bệnh nhân ngồi chờ thưa dần, Jonathan cất các bản chụp đi, Clara bọc lại bức tranh lại và họ nồng nhiệt cám ơn bác sĩ. Trước khi ra về, họ hứa sẽ gửi lời chào cuả ông tới Peter ngay khi gọi điện cho anh.
Về tới phòng tranh, họ ngồi quanh chiếc bàn có đèn sáng mà Clara vẫn thường dùng để xem các bản chụp phim. Clara chép lại theo mẫu những kí tự của Vladimir vào cuốn sổ của Jonathan. Anh để cô ngồi đó một mình một lát và ra tìm vài tài liệu trong cặp.
Clara vùng về đánh rơi cuốn sổ lớn gáy lò xo, cô cúi xuống nhặt và lật tìm trang đang viết dở. Chợt cô dừng lại trên một trang , ngón tay vuốt nhẹ trên hình phác thảo khuôn mặt mà cô có thể dễ dàng nhận ra. Jonathan quaytrở lại. Cô đóng nhanh cuốn sổ và đặt nó lên bàn.
Những chữ cái viết hoa mà Vladimir ghi bằng bút chì , trên bề mặt bức tranh không tiết lộ được gì về tác giả của nó. Tuy nhiên, những nỗ lực của ngày hôm đó cũng không phải hoàn toàn vô ích. Jonathan đã phân tích được tấm toan dùng để vẽ bức tranh. Nó hoàn toàn giống hệt tấm toan mà trước kia anh từng nghiên cứu. Mỗi phân vuông của tấm vải được dệt bởi 14 sợi ngang và 14 sợi dọc, tuyệt đối giống với lọai vải mà Ngài Edward cung cấp cho Vladimir. Cả chiếc khung dùng để căng tấm toan cũng vậy. Đến khi trời tối, Jonathan và Clara đóng cửa phòng tranh rồi quyết định dạo bộ trên những con đường yên tĩnh của khu phố.
-Tôi muốn cảm ơn anh vì những gì anh đã làm, Clara nói.
-Chúng ta vẫn còn cách đích rất xa, Jonathan trả lời , hơn nữa chính tôi mới là người phải cám ơn cô.
Trên đường đi, qua những vỉa hè vắng vẻ, Jonathan thú nhận rằng, anh còn cần rất nhiều trợ giúp mới có thể hoàn thành việc này đúng hạn. Mặc dù anh tin chắc bức tranh này là thật, thì cũng cần phải thực hiện nhiều đợt kiểm tra nữa mới khả dĩ có những bằng chứng không thể phủ nhận.
Clara dừng lại dưới ngọn đèn đường và đứng đối diện với anh . Cô mong tìm được những lời thỏa đáng để nói với anh , song có lẽ vào thời điểm này sự yên lặng là những gì thích hợp nhất với họ. Cố hít một hơi rồi tục bước đi. Jonathan cũng lặng thinh. Thêm vài mét nữa, họ sẽ tới trước cửa khách sạn và chia tay nhau dưới mái hiên. Trong khoảnh khắc của đêm , anh những muốn mấy bước chân cuối cùng của họ sẽ kéo dài mãi mãi. Vừa bước đi , cánh tay họ thả sát ngừơi vung lên nhè nhẹ, bàn tay họ gần như chạm vào nhau. Ngón út của Clara mắc vào ngón tay anh, các ngón còn lại đan vào với nhau. Trong màn đêm Luân-đôn, hai bàn tay nhập vào thành một và cơn mê lại bắt đầu tái hiện.
Những ngọn nến lung linh soi sáng phòng đấu giá rộng mênh mông, tất cả các ghế đều đã có người ngồi kín. Đám đàn ông đội mũ cao và đồng phục chen chúc giữa những dãy ghế, đứng len vào mọi góc phòng, nhiều người trong số họ đi cùng với những phụ nữ mặc váy diêm dúa. Trên bục, một người đàn ông đang đứng sau bàn điều khiển phiên đấu giá. Chiếc búa đập xuống báo hiệu kết thúc đấu giá một chiếc bình cổ. Phía sau ông ta, trong những cánh gà nơi Jonathan và Clara đang đứng, mấy người đàn ông mặc áo choàng xám vội vã. Tấm bảng bọc nhung đỏ đính trên một cái trục được quay ra và chiếc bình biến mất khỏi gian phòng. Một nhân viên lập tức nhấc nó khỏi bệ và thay vào đó bằng một tác phẩm điêu khắc.
Người đàn ông lại quay tấm bảng khiến bức tượng đồng hiện ra trước mắt những vị khách tới tham dự đấu giá. Jonathan và Clara nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên họ gặp trong cơn mê mà mỗi người đều không biết nguyên nhân. Mặc dù cả hai đều không thể thốt ra một lời nào, song ít nhất họ cũng không bị đau đớn như những lần trước. Trái lại, tay vẫn nắm trong tay ,cơ thể họ dường như tồn vượt qua mọi thời gian. Jonathan bước lại gần Clara , cô nép vào anh, và anh nhận ra làn hương của da thịt cô. Chiếc búa của người điều khiển đấu giá khiến họ chợt giật mình, một bầu không khí yên tĩnh kỳ lạ chợt trùm lên gian phòng. Tấm bảng lại xoay một vòng nữa , bức tượng được lấy ra và một người đàn ông mặc áo choàng xám treolên đó bức tranh mà cả hai người liền nhận ra ngay tức khắc. Nhân viên chấp hành báo tin đến lượt phiên đấu giá một bức tranh lớn của một nhà danh họa Nga. Ông ta cũng thông báo bức tranh này đã được bảo lãnh và hiện đang thuộc bộ sưu tập cá nhân của Ngài Edward Langton, chủ phòng tranh nổi tiếng nhất Luân-Đôn. Một viên thư ký băng qua gian phòng và trèo lên các bục, anh ta đưa chiếc phong bì đang kẹp dưới nách cho nhân viên chấp pháp. Ông này bóc phong thư và nghiêng người chuyển nó cho chuyên gia đấu giá khiến mặt vị này sững lạnh như đóng băng. Ông gọi viên thư ký lại gần và hỏi khẽ vào tai:
- Đích thân ông ta đưa nó cho anh à?
Viên thư ký trịnh trọng gật đầu xác nhận. Lúc ấy, nhà đấu giá hét to ra lệnh cho nhân viên không được bày bức tranh lên nữa, đó là một bức tranh giả. Rồi ông chỉ tay về phía người đàn ông ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn về phía ngài Edward lúc này vừa đứng bật dậy. Một giọng nói thét to công phẫn, một giọng khác gào lên là lừa đảo, thêm một giọng hỏi ầm lên rằng các chủ nợ sẽ được thanh toán như thế nào,“tất cả chỉ là một trò gian trá”, một giọng nữa gào lên.
Người đàn ông có khổ vai rộng len lỏi dẹp lối giữa đám đông ngày càng khép chặt lại . Cuối cùng ông ta cũng ra đựơc tới những cánh cửa dẫn đến một cầu thang, cố gắng thoảt khỏi đám nhà buôn đang xô nhau đuổi theo, và chạy ra phố. Phía sau ông, gian phòng đấu giá dần trở nên vắng vẻ.
“Nhanh lên, nhanh lên ”, một giọng nói thì thào bên tai Jonathan .Một đôi trai gái chạy qua trước mặt anh, trong tay ôm tác phẩm cuối cùng của Vladimir Radskin được bọc kín trong một tấm chăn. Khi đôi trai gái biến mất sau khán phòng, cơn mê vụt tắt.
Clara và Jonathan nhìn nhau sửng sốt. Trên con phố vắng vẻ , những bóng đèn trên cột thôi không nhấp nháy nữa. Họ chậm rãi ngước đầu lên. Phía trên tòa nhà nơi họ nắm tay nhau, tấm biển bằng đá trắng có khắc hàng chữ “Vào thế kỷ XIX, nơi đây từng là trung tâm đấu giá của Quận Mayfair”.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận