Sáng hôm sau, Jonathan lại gặp Clara và những người thợ vận chuyển đã giao bức tranh của ngày hôm đó. Trong khi họ đang bận rộn tháo dỡ, một chiếc Austin bé tí màu đỏ chói dừng trước tường kính. Một thanh niên từ trên xe bước xuống và đi vào phòng tranh, hai tay ôm một chồng tài liệu. Clara ra hiệu cho anh ta rồi biến mất vào phía trong. Người lạ mặt, không nói một lời, chăm chú nhìn Jonathan chừng mười phút, cho tới khi Clara xuất hiện trong chiếc quần da và một chiếc áo được thiết kề bởi một nhà tạo mẫu nổi tiếng. Jonathan bị choáng ngợp bởi vẻ dịu dàng gợi cảm toát ra nơi cô.
- Chúng tôi sẽ quay lại sau hai tiếng,
Clara nói với người thanh niên. Cô vội vã ôm chồng tài liệu mà người thanh niên để trên bàn bước ra cửa, rồi quay lại nói với Jonathan.
- Anh đi với tôi, cô nói.
Ra tới vỉa hè, cô nghiêng người về phía anh và nói nhỏ:
- Anh ta tên là Frank, làm việc trong một phòng tranh khác của tôi. Nghệ thuật đương đại! Cô vừa nói thêm vừa chỉnh lại dây áo.
Hơi sửng sốt, Jonathan mở cửa x echo cô. Clara chui vào xe và lách mình qua hộp số sang ghế bên kia.
- Ở chỗ chúng tôi, tay lái nằm phía bên kia, cô vừa nói vừa cười và cho chiếc Cooper khởi động.
Phòng tranh ở Sôh rộng gấp năm lần phòng tranh ở Mayfair. Các tác phẩm được trưng bày không thuộc phạm vi chuyên môn của Jonathan, song anh vẫn nhận ra trên tường có ba bức tranh của Basquiat, hai bức tranh của Andy Warhol, một của Bacon, một của Willem de Kooning, cùng các bức tranh khác và một số tác phẩm điêu khắc hiện đại, trong đó có hai bức tượng của Giacometri và Chillida.
Clara trao đổi khoảng nửa giờ với một khách hàng, gợi ý cho một phụ tá trao đổi vị trí hai bức tranh, kiểm tra độ sạch của một đồ gỗ bằng cách kín đáo miết tay lên bề mặt, ký hai tờ séc được kẹp trong một cặp hồ sơ màu cam do một người phụ nữ có mái tóc màu đỏ được thắt bằng vài sợi dây màu xanh trình cho cô. Sau đó, cô gõ một bức thư trên chiếc máy tính cũng rất xứng đáng được xem là một tác phẩm nghệ thuật, rồi tỏ ra hài long, cô đề nghị Jonathan đi cùng cô tới chỗ một đồng sự. Cô yêu cầu ai đó báo với Frank anh sẽ phải ở lại Mayfair hơi lâu một chút. Sau khi chào bốn người đang làm việc ở phòng tranh, họ lại rời đi bằng chiếc xe nhỏ.
Cô lái xe điệu nghệ theo những con phố hẹp của Sôh và cuối cùng lách được vào chỗ đậu xe duy nhất còn trống trên phố Greek. Jonathan đứng chờ trong khi cô thương lượng một bức tượng khá lớn với người bán hàng. Họ về tới số 10 phố Albermarble vào đầu giờ chiều. Vẫn không phải là bức tranh mà anh hy vọng được nhìn thấy, xong vẻ đẹp của bức tranh nhận được cũng an ủi anh khá nhiều.
Người thợ ảnh phá tan bầu không khí thân mật ngắn ngủi mà cả anh và cô mặc dù chưa thú nhận bằng lời, song đều cảm thấy dễ chịu. Trong khi Jonathan xem và đánh giá bức tranh, Clara bận rộn bên bàn làm việc sắp xếp giấy tờ và ghi chép. Thỉnh thoảng, cô ngước mắt lên quan sát anh; đôi lúc anh cũng làm như vậy, và một vài lần ánh mắt họ gặp nhau, hai người cùng vôi vã quay đi để lẫn trốn sự tình cờ ấy.
Peter đã ở lì cả ngày tại Christie’S, bận rộn tập hợp những tài liệu cần thiết để chuẩn bị cho buổi đầu giá. danh mục của anh. Lúc không bận rộn với những thành viên trong ban quản trị để thuyết phục họ rằng anh hoàn toàn có thể tổ chức mọi thứ đúng hạn, anh lại giam mình trong phòng dữ liệu. Ngồi trước một màn hình máy tính được kết nối với một trong những hệ thống cơ sở dữ liệu tư nhân lớn nhất trong lĩnh vực kinh doanh nghệ thuật, anh lưu lại và sắp xếp tất cả các bài viết và các bức ảnh được thực hiện trong vòng một thế kỷ về những tác phẩm của Vladimir Radskin. Buổi họp ban quản trị để quyết định số phận của anh đã được dời lại tới hôm sau và Peter có cảm giác như mỗi giờ trôi qua, cổ áo sơ-mi lại càng siết chặt lấy họng anh.
Anh gặp lại Jonathan tại khách sạn để đưa bạn tới một buổi dạ tiệc thượng lưu, những chốn ấy khiến Jonathan căm ghét hơn mọi thứ trên đời. Song, vì công việc, anh vẫn cố tỏ ra tươi tỉnh trong suốt buổi nhạc kịch với sự có mặt của những nhà sưu tầm nghệ thuật lớn nhất cũng như những nhà kinh doanh nghệ thuật tên tuổi nhất. Tới cuối buổi diễn, Jonathan ra về ngay lập tức. Trong khi đi dạo theo những con phố của Convent Garden, anh nghĩ tới cuộc sống xa xưa từng diễn ra tại đây. Những mặt tiền tuyệt đẹp này trước kia vẫn còn nham nhở vôi vữa, những con đường trong khu phố này, giờ là một trong những con phố đắt giá nhất của London, xưa kia tồi tàn và bẩn thỉu. Dưới anh sáng mờ yếu ớt phát ra từ một trong những ngọn đèn cao áp chiếu xuống vỉa hè bóng loáng, khoảng một trăm năm mươi năm về trước, anh đã có thể gặp đâu đó trong con phố nhỏ này một họa sĩ người Nga tay cầm mẩu than đang cặm cụi vẽ những người qua đường hối hả mua bán xung quanh một ngôi chợ.
Peter, về phần mình, đã gặp một cô bạn cũ người Ý vừa mới ghé London. Anh ngập ngừng đôi chút trước khi cô cùng anh uống một vài ly. Dù sao thì buổi họp cũng chỉ bắt đầu vào đầu giờ chiều mai, là lúc mà thông thường anh cảm thấy cao hưng nhất trong ngày. Lúc này mới nửa đêm, anh bước vào quán rượu trong vòng tay Melena.
***
Jonathan tỉnh dậy từ sớm, Peter vẫn chưa có mặt tại sảnh như đã hẹn, anh liền tận dụng cơ hội đó để thong thả tản bộ tới phòng tranh. Cánh cửa sắt bên ngoài vẫn đong kín, anh mua một tờ báo và ngồi chờ Clara trong quán cà-phê. Một lúc sau, anh chàng Frank đến tìm anh và trao cho anh một phong bì. Jonathan xé ra đọc.
Jonathan thân mến,
Thứ lỗi cho sự vắng mặt của tôi, tôi sẽ không thể gặp anh sáng nay. Frank sẽ thay tôi nhận bức tranh và tất nhiên là phòng tranh vẫn mở rộng cửa chào đón anh. Tôi biết anh rất nóng lòng được nhìn thấy bức tranh của ngày hôm nay, nó rất tuyệt vời. Lần này tôi để anh toàn quyền xử lý phần ánh sáng, tôi biết anh sẽ xoay sở rất tốt. Tôi sẽ gặp lại anh ngay sau khi giải quyết xong công việc. Chúc anh có được một ngày tốt đẹp với Vladimir. Tôi cũng rất muốn ở lại với anh và ông ấy nhưng không thể.
Thân mến, Clara.
Vẻ mặt ưu tư, anh gấp bức thư lại và cất nó vào trong túi áo. Khi anh ngẩng đầu nhìn lên, chàng thanh niên đã ở bên trong phòng tranh. Chiếc xe tải của hãng Delahaye Moving tới đậu dọc vỉa hè. Jonathan ngồi chờ bên quầy bar và lấy bức thư của Clara ra đọc lại. Đến khoảng mười một giờ, anh sang chỗ Frank; cho tới tận trưa, họ vẫn không nói với nhau câu nào. Người đội trưởng thông báo với họ công việc tháo dỡ bức tranh còn cần thêm chút thời gian. Jonathan nhìn đồng hồ và thở dài, thậm chí anh còn chẳng muốn quay lại nghiên cứu những bức tranh đã được treo lên.
Anh ra đứng cạnh cửa kính, thoạt tiên đếm những chiếc xe chạy qua, rồi ước lượng thời gian trung bình mà người cảnh sát tuần tra bên kia đường cần để ghi nhớ mỗi tờ giấy phạt, anh đếm được bảy người khách đã bước vào quán cà phê, bốn người trong số họ ở lại gọi đồ uống, ước chừng cây cột điện có lẽ cao khoảng hai mét mốt. Một chiếc Cooper màu đỏ từ cuối phố chạy tới nhưng nó không dừng lại. Jonathan thở dài, anh đi lại bàn làm việc của Clara và cấm lấy điện thoại.
- Cậu ở đâu thế? Anh hỏi Peter.
- Dưới địa ngục! Miệng tớ cứng đơ như phải gió, mà buổi họp của tớ lại bị đẩy lên sớm một tiếng.
- Cậu đã sẵn sàng chưa?
- Tớ đã uống bốn viên aspirin nếu như đó là điều cậu muốn biết, và hiện giờ tớ đang nghĩ tới viên thứ năm. Giọng cậu bị làm sao thế? Peter hỏi đúng lúc anh chuẩn bị bỏ máy.
- Giọng tớ có sao đâu?
- Không sao, giọng cậu nghe cứ như cậu đưa đám ấy.
- Không, rất may, đã lâu tớ không phải dự đám tang nào cả.
- Tớ xin lỗi, thông cảm cho tớ, tớ hơi hoảng.
Tớ lúc nào cũng ở bên cậu, dũng cảm lên, tất cả rồi sẽ tốt đẹp thôi.
Jonathan đặt máy xuống và nhìn Frank đang bận rộn ở phía sau phòng tranh.
- Anh làm việc ở đây đã lâu chư? Anh vừa hỏi vừa húng hắng ho.
- Cô chủ đã nhận tôi vào làm cách đây ba năm, chàng thanh niên vừa trả lời, vừa đóng một ngăn kéo đựng tài liệu.
- Cô ấy và anh có hợp nhau không? Jonathan hỏi.
Frank lúng túng nhìn anh vẻ ngạc nhiên rồi quay lại với cộng việc dở dang. Một tiếng sau Jonathan lại phá vỡ sự im lặng bằng cách hỏi cậu ta có muốn cùng anh dùng hamberger vào bữa trưa. Frank ăn chay.
Peter bước vào phòng họp và ngồi vào chỗ duy nhất còn trống quanh chiếc bàn gỗ gụ. Anh chỉnh lại ghế và chờ tới lượt mình. Mỗi lần tới lượt một đồng nghiệp phát biểu, anh cảm giác như có một sư đoàn tăng thiết giáp với những bánh xích gỉ rét đang lăn trên màng nhĩ và sẵn sàng nã súng vào thái dương anh. Những cuộc tranh cãi kéo dài bất tận. Người ngồi phía bên phải anh đã nói xong và cuối cùng, thì cũng đến lượt Peter được mời phát biểu. Các thành viên của hội đồng bắt đầu mở tập hồ sơ anh phát cho họ trước đó. Anh trình bày sơ qua về lịch đấu giá của mình và đặc biệt tập trung vào buổi đấu giá mà anh sẽ thực hiện tại Boston vào cuối tháng Sáu. Khi anh đề cập tới nguyện vọng được bổ sung thêm các bức họa của Vladimir Radskin mới được nhắc tới trong thời gian gần đây tiếng xì xào nổi lên khắp phòng. Ông giám đốc chủ tọa buổi họp cất lới. Ông nhắc nhở Peter rằng khách hàng đưa ra những bức họa của Radskin là một phòng tranh lớn. Nếu giao các bức họa đó cho Nhà Christie’s, chắc chắn khách hàng sẽ trông đợi công ty chăm sóc quyền lợi của họ một cách trân trọng nhất. Vì vậy không nhất thiết phải quá vội vàng trong công tác chuẩn bị. Các buổi đấu giá tại London trong quý hai có thể sẽ thích hợp hơn nhiều.
- Tất cả chúng tôi đều đã đọc bài báo đó, chúng tôi rất thông cảm với anh, Peter thân mến ạ, nhưng tôi sợ rằng anh sẽ khó có thể tạo ra một sự kiện lớn xung quanh Radskin, dù sao thì ông ta cũng không phải là Van Gogh! Ông giám đốc vui vẻ kết luận.
Tiếng cười cố kiềm chế của các đồng nghiệp khiến Peter vô cùng bực mình song làm anh không còn lời nào để tranh luận tiếp nữa.
Một nữ phụ tá bước vào, mang theo một chiếc khay đựng một ấm trà bằng bạc nặng trịch. Tiếng tranh luận chợt ngừng lại trong khi cô đi một vòng quanh bàn để tiếp trà cho những ai muốn uống thêm. Qua cánh cửa để ngỏ, Jonathan nhìn thấy James Donovan từ một phòng làm việc bước ra. Donovan chính là người đã gửi bức thư điện tử tới Boston cho anh hôm Chủ nhật.
- Xin thứ lỗi cho tôi vài phút, anh lắp bắp và vội vã bước ra hành lang.
Anh tóm lấy tay áo Donovan và kéo ra hơi xa một chút.
- Nói cho tôi biết, Peter gằn giọng qua kẽ răng, tôi đã để sáu tin nhắn cho anh trong vòng hai ngày, anh có đánh mất số điện thoại của tôi không?
Xin chào, ông Gwel, chàng trai trầm tĩnh nói.
- Tại sao anh không gọi lại cho tôi? Ngay cả anh cũng đã đọc báo quá nhiều rồi phải không?
- Di động của tôi bị mất cắp và tôi không hiểu ông đang nói gì, thưa ông. Peter cố gắng lấy lại bình tĩnh. Anh lấy tay phủi nhẹ vạt áo vét của Donovan và kéo anh ra xa hơn chút nữa.
- Nói cho tôi biết, Peter gằn giọng qua kẽ răng, tôi đã để sáu tin nhắn cho anh trong vòng hai ngày, anh có đánh mất số điện thoại của tôi không?
- Xin chào, ông Gwel, chàng trai trầm tĩnh nói.
- Tại sao anh không gọi lại cho tôi? Ngay cả anh cũng đã đọc báo quá nhiều rồi phải không?
- Di động của tôi bị mất cắp và tôi không hiểu ông đang nói gì, thưa ông. Peter cố gắng lấy lại bình tĩnh. Anh lấy tay phủi nhẹ vạt áo vét của Donovan và kéo anh ra xa hơn chút nữa.
- Tôi có một câu hỏi đặc biệt quan trọng dành cho anh, và anh sẽ phải tập trung toàn bộ chất xám hiện có để cho tôi một câu trả lời duy nhất mà tôi muốn nghe.
- Tôi sẽ cố gắng hêt sức, thưa ông, Dono van trả lời.
- Về vụ Radskin, có đúng như anh viết trong thư gửi cho tôi là có năm bức tranh sẽ được đưa ra không?
Chàng trai trẻ lấy từ trong túi áo ra một cuốn sổ chỏ bọc da và lật đi một vài trang, lật lại một vài trang rồi lại lật đi vài trang nữa. Cuối cùng anh dừng lại ở một trang và nói bằng giọng phấn khởi:
Chính xác là như vậy, thưa ông.
- Cụ thể là bằng cách nào anh đã có được con số đó? Peter hỏi khi cơn
nóng giận của anh đã lên tới cực điểm.
Người báo tin cho anh giải thích có một phòng tranh đã liên hệ với Nhà Christie’s và anh ta đã được phái gấp tới cuộc hẹn được ấn định vào thứ sáu tuần trước lúc hai giờ 30 phút chiều tại số 10 phố Abbermarle. Đích thân cô chủ phòng tranh đã tiếp anh ta và cung cấp cho anh ta mọi thông tin. Khi trở về phòng làm việc vào lúc bốn giờ chiều, anh ta đã thảo một bản báo cáo và gửi cho sếp mình vào lúc bốn giờ 45 phút chiều. Khi sếp anh ta hỏi trong công ty co chuyên gia đấu giá nào biết rõ về danh họa này không, cô Blenz của phòng tìm kiếm dữ liệu đã đưa ra cái tên Peter Gwel, người thường xuyên làm việc với Jonathan Gardner, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về Vladimir Radskin.
- Tôi vội vàng viết ngay cho ông một bức thư điện tử và gửi đi từ nhà tôi vào buổi chiều hôm thư bảy.
Peter nhìn anh ra chằm chằm và nói ngắn gọn.
- Quả là khá cụ thể, Donovan ạ.
Sau khi cảm ơn anh ta, Peter hít một hơi thật sâu và quay trở vào trong phòng họp.
- Tôi có một lý do chính đáng để yêu cầu đưa các bức tranh ra trong buổi đấu giá ở Boston ngày 21 tháng sáu, anh tự hào tuyên bố với cử tọa.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận