Suốt thời gian Bác ở, tôi thật không thể nào đánh giá Bác được đúng. Nay nghĩ Bác ở cấp này, mai nghĩ Bác ở cấp khác, càng ngày càng thấy Bác cao cả, gương mẫu, đạo đức và giỏi. Thực sự vẫn không sao biết hết cái lớn của Bác. Bác đi rồi nhà tôi như trống rỗng ra. Cả nhà nhớ Bác. Trông thấy cái gì cũng nhớ có bàn tay của Bác sắp xếp tu sửa. Nhất là cháu Hải nó tiu nghỉu mất mấy ngày.
Tôi viết thư báo việc Bác đi lên Côn Minh, và hỏi Bác đã tới chưa ? Mấy hôm sau nhận tin Bác và anh Kiên đã tới rồi tôi mới yên tâm.
Hai tháng sau Đảng triệu tập tôi lên họp. Tôi lại có sung sướng được gặp Bác lần thứ hai. Anh Hoan đến tìm tôi ở trạm, đưa đi. Giữa đường, gần chùa Cá thì gặp Bác và anh Kiên. Bác bắt tay tôi, cười hỏi tôi có khỏe không, có đánh vợ nữa không ? Rồi Bác nói : “Tôi ở nhà anh nhiều, hôm nay tôi thết anh một bữa”.
Tôi tưởng sẽ có một bữa ra trò, nhưng rốt cục chỉ là một bữa cháo hoa, ăn với chầu quẩy[3] . Bác dặn tôi đến hội nghị thì báo cáo tình hình công nhân và sự hoạt động của chi bộ cho các đại biểu trong nước biết, nhưng đừng nói là có gặp Bác. Ăn cháo xong, Bác và anh Kiên lại bắt tay tôi rồi đi.
Tới hội nghị, tôi gặp anh Đồng, anh Giáp, một chị nữa và hai đồng chí Việt Nam hoạt động trong Hồng quân. Họp xong tôi về nhà anh Kiên, thấy có treo một bức địa đồ. Anh Kiên giảng cho tôi về những biến chuyển mới trong tình hình quốc tế và trong nước. Rồi tôi về Xì Xuyên báo cáo lại với chi bộ nhiệm vụ công tác mới. Ít lâu sau thì có một đồng chí Trung Quốc đến liên lạc. Thì ra Bác vẫn nhớ yêu cầu của chúng tôi”. [4]
“…Từ Côn Minh đến Tĩnh Tây, thì gặp một nhóm thanh niên Cao Bằng, dẫn đầu là các đồng chí Quảng Ba, Hoàng Sâm… Họ sang đây tìm người lãnh đạo cách mạng và đã gặp Trương Bội Công.
Trương Bội Công là người Việt Nam sang Trung Quốc và làm việc cho Quốc dân đảng đã lâu năm. Tuy không hiểu biết gì về quân sự, nhưng y đã được Tưởng Giới Thạch phong cho hàm thiếu tướng. Nay Tưởng Giới Thạch phái y đến biên giới, nhằm lung lạc cách mạng Việt Nam. Gặp nhóm thanh niên, Trương Bội Công khoe khoang nhiều lắm, lên mặt “chí sĩ yêu nước”, “cách mạng lão thành” và sẵn sàng thu nạp đám thanh niên làm “bộ hạ” cho y.
Nhưng anh em thanh niên cũng tinh quái đáo để. Chỉ nghe cách y nói khoác lác, họ cảm thấy y không phải là người cách mạng chân chính. Họ thất vọng. Họ sắp kéo nhau trở về Cao Bằng, thì nhóm Bác vừa đến Tĩnh Tây. Các đồng chí Đồng, Giáp… tìm gặp nói chuyện với đám thanh niên hăng hái đó. Giải thích cho họ rõ bước đường cách mạng hiện nay. Bàn với họ mở ban huấn luyện v.v… Anh em thanh niên rất hoan nghênh. Nói ngay, làm ngay. Tối hôm đó, họ rời khỏi Tĩnh Tây. Sáng hôm sau, Trương thiếu tướng ngủ dậy thì không thấy “bộ hạ” của y đâu nữa ; cho người đuổi theo, thì chậm quá rồi !
Đồng chí Lê Quảng Ba dẫn Bác và nhóm thanh niên đi cả đêm, đến một làng Trung Quốc gần biên giới Việt Nam, mượn nhà người quen, mở ban huấn luyện do Bác phụ trách. Lớp huấn luyện rất sôi nổi, dân chủ và vui vẻ. Bà con Trung Quốc trong làng không hiểu chúng mình dạy cái gì, học cái gì, nhưng đều khen thanh niên Việt Nam đoàn kết, chăm học, siêng làm. Bà con trong làng nhất là những người cho mượn nhà rất mến chúng ta. Vì vò nước bao giờ cũng đầy, đống củi bao giờ cũng cao, nhà cửa bao giờ cũng sạch, trong nhà có việc gì chúng ta cũng ra tay làm giúp. Đặc biệt các em nhi đồng luôn luôn xoắn xít chung quanh anh em ta để học hát, học nhảy múa, không nghịch ngợm và đánh nhau như trước nữa. Chúng ta đã góp phần làm cho cái làng tịch mịch trong thung lũng âm u vui hẳn lên… Bác bảo các đồng chí thanh niên : “Đó là một cách dân vận thiết thực đấy”.
Vào khoảng tháng hai 1941, vừa đến Tết âm lịch thì ban huấn luyện cũng vừa kết thúc. Tối mồng một Tết, được tin chuyên viên Quốc dân đảng sắp đến kinh lý vùng này (Tin này sau hóa ra tin vịt). Sợ bị lộ, sáng mồng hai Tết, Bác cùng tất cả anh em cuốn gói chuồn, mặc dù bà con trong làng khẩn khoản mời ở lại ăn Tết đến ngày hạ nêu hẵng đi.
Hôm đó, sương mù dày đặc, ngồi giáp mặt nhau cũng không thấy rõ nhau. Mọi người cho khí hậu như thế là tốt, vì dễ giữ bí mật. Đi cách làng một thôi quá xa, ai cũng mỏi chân và đói bụng. Bác bảo : “Nơi đây kín đáo, chúng ta ngồi nghỉ một chốc…” . Nghỉ chưa đầy hai phút thì trời sáng, sương tan. Té ra ngồi nghỉ giữa cánh đồng ruộng, chẳng kín đáo chút nào ! Mọi người lại vội vàng khoác gói lên đường, bước nhanh hướng về phía Tổ quốc.
Chiều hôm đó, đồng chí Quảng Ba dẫn Bác và cả nhóm thanh niên về Pắc Bó. Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động. Từ hôm đó, cái hang Pắc Bó trở nên “địa bản doanh” của chúng ta. Hội nghị lần thứ Tám của Trung ương đã khai ở Pắc Bó. Ở đó đã tổ chức những ban huấn luyện ngắn ngày và để đào tạo cán bộ. Mở lớp dạy chiến thuật du kích, phát triển tổ chức Việt Minh và cơ sở Đảng, đặt kế hoạch chống Pháp, chống Nhật v.v…” [5]
*
* *
“…Về Pắc Bó, địa điểm ở cũng thay đổi luôn có hai vòng bảo vệ, vòng ngoài do các đồng chí Lê Quảng Ba, Cổ Vân phụ trách. Bảo vệ Bác thì có đồng chí Đức Thanh, sau này hy sinh trong Nam.
Ở Pắc Bó, sáng nào Bác cũng hỏi anh em hôm nay làm việc gì. Ai không có việc thì Bác giao việc cho. Cả những việc vặt như khâu giầy, vá áo. Bác thường làm việc cả ngày. Khi viết tài liệu, khi dịch sách, Bác chú ý đến mọi việc. Cả đến việc bếp núc, Bác thường bảo rang thịt thật mặn như muối bám xung quanh. Đi làm công tác tổ chức, Bác dặn phải bí mật. Bác lại hỏi : bí mật thì bí mật như thế nào ? Bác giảng : bí mật là không có, không thấy, không biết. Bác bảo gặp ai lại hỏi mà không nói cũng không được. Nói thì nói : không có, không thấy, không biết.
Có lần chị Trương Thị Mỹ đi giao thông cho Trung ương lên chiến khu. Trung ương dặn lên đưa thư cho ông già Thu, bí danh của Bác hồi ấy. Bác ra nhận thư và bảo chị Mỹ : Đồng chí Thu đi vắng. Tôi là giao thông của đồng chí Thu nhận thay. Chị Mỹ được ở lại chiến khu dự lớp huấn luyện. Khi lên lớp thì thấy người giảng chính trị cũng vẫn là ông giao thông của đồng chí Thu. Cách mạng có khác thật, ông giao thông giảng mà có sức hấp dẫn lạ thường. Nghe đến đâu hiểu đến đấy, giản dị mà sâu sắc, dễ nhớ, lại sáng tỏ như có đèn rọi vào tim óc. Suốt thời kỳ huấn luyện cũng chẳng thấy đồng chí Thu về. Chắc ông già còn bận công tác. Thỉnh thoảng lại được nghe anh chị em thì thầm chuyện đồng chí Nguyễn Ái Quốc say sưa một cách lạ. Dự xong lớp, chị Mỹ về, hoạt động và lãnh đạo khởi nghĩa ở Hà Đông. Danh sách chính phủ lâm thời được công bố. Quái lạ sao không thấy tên Nguyễn Ái Quốc hay đồng chí Thu làm chủ tịch ? Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại là cụ Hồ Chí Minh ? Cụ Hồ Chí Minh nào nhỉ ? Chị Mỹ thắc mắc mãi. Có thêm tí hậm hực nữa. Cả đến khi đưa đoàn đại biểu của nhân dân Hà Đông ra dự lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 vẫn chưa thấy hết thắc mắc và hậm hực. Nhưng khi Chính phủ ra mắt, thì ôi chao : Chủ tịch Chính phủ cũng chính là đồng chí giao thông của ông già Thu. Từ đó chị Mỹ mới yên lòng.
Ở chiến khu, trước hội nghị Trung ương lần thứ Tám, Bác đã cho đi tổ chức nông dân, phụ nữ, thanh niên và binh lính cứu quốc. Bác nói : muốn có đội quân võ trang, phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã. Nên việc này phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị càng ngày càng đông.
Bác lấy chuyện trong lịch sử Đảng cộng sản Liên-xô kể cho chúng tôi nghe. Bác nói : Khi cách mạng tháng Hai lật đổ Nga hoàng thì Kê-răng-xki nắm chính quyền. Lê-nin chủ trương trước hết là giải thích, giải thích, giải thích.
Và Bác kết luận : Như ở ta, muốn đánh Pháp, Nhật thì ai vác súng ? Ai là người tự nguyện, tự giác vác súng ? Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện vác súng thì mới thắng được.
Vì chủ trương này nên Bác phân công hầu hết số 60 thanh niên đi các nơi hoạt động, như những luồng gió thổi bùng phong trào Việt Nam chống Pháp, kháng Nhật ở các địa phương lên.
Bác rất coi trọng công tác quần chúng. Bác thường nói : Ta ở bí mật nhưng không bí mật với quần chúng được. Trái lại, phải lấy quần chúng làm cái bình phong che đậy cho mình, báo tin cho mình. Bác thường dặn chúng tôi hết sức chú ý phong tục địa phương. Nơi nào có tục ăn thề thì cán bộ phải ăn thề với đồng bào.
Bác tiết kiệm đến cực độ. Bác yếu mà không chịu ăn cơm riêng, vẫn ăn độn ngô với anh em. Tôi đi công tác về, thấy Bác vẫn ăn ngô, phải họp hội nghị ra quyết nghị Bác phải ăn cơm. Nằm, Bác cũng nằm ổ cỏ gianh như mọi người, Bác bị ghẻ. Chúng tôi phải đốt cỏ gianh đi, thay ổ mới để Bác nghỉ. Bác đề xuất vấn đề phải bán báo Việt Nam độc lập của đoàn thể. Bán một xu thôi. Quần chúng có mua mới quý tờ báo, chịu đọc báo. Hội viên cứu quốc cũng đóng nguyệt phí một xu.
Ngày Tết quần chúng trong làng lên chúc Tết đủ mặt. Các chị phụ nữ mỗi người mang một cái làn đựng thẻ hương và quả bánh, kéo từng đoàn đến lễ Tết. Bác vẽ một ảnh Phật treo trên vách đá cho quần chúng có chỗ lễ. Ai đến Bác cũng phong bao giấy đỏ cho mỗi người một xu. Bác giải thích : một xu này là của đoàn thể cho. Nó là xu nguyệt phí của các đồng chí, xu mua báo của các đồng chí. Các đồng chí cầm đồng xu, quý đồng xu không phải vì nó là tiền, mà là để nhớ đoàn thể, có trách nhiệm với đoàn thể.
Tháng 5-1941, Trung ương họp Hội nghị lần thứ Tám, có Bác, các anh Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, hai đại biểu Trung Kỳ và tôi. Công việc của hội nghị có tính chất quyết định đến phong trào như thế nào, ta đã nói đến nhiều. Chỉ nhắc vài nét nhỏ về Bác. Trong hội nghị, Trung ương đề nghị Bác viết bài hiệu triệu đồng bào, và đem in đá ở Long Châu, một bên là chữ nho, một bên là chữ quốc ngữ. Tên Bác không in mà khắc dấu đóng sau. Đó là bài hiệu triệu của cụ Nguyễn Ái Quốc, đã làm nức lòng đồng bào suốt từ Nam chí Bắc hồi tiền khởi nghĩa.
Trong hội nghị này cũng bàn việc lập Mặt trận, Bác phát biểu : Lập Mặt trận thì đồng ý rồi, nhưng lập Mặt trận gì ? Các đồng chí nói lập Mặt trận dân tộc thống nhất. Bác bảo nên lấy tên Mặt trận gì gợi lòng yêu nước và chí căm thù của đồng bào toàn quốc. Do đó mới quyết định lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh.
Lập xong Mặt trận là đã có tinh thần tích cực chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ Tám, có nghị quyết rồi, làm thế nào phổ biến được nghị quyết ?
Tài liệu thì dài, lại phải phổ biến bí mật. Làm thế nào đây ? Bác giữ anh Trường Chinh và anh Hoàng Quốc Việt ở lại để cắt. Cắt xong thì đánh máy, đánh máy xong thấy còn dài, lại cắt. Lại đánh máy. Các anh phải sốt ruột lên vì cắt nhiều. Cuối cùng còn lại có mấy trang, rất cô đọng, phổ biến rất nhanh, rất tốt. Lúc đó là cuối tháng 5 năm 1941.
Hội nghị Trung ương lần thứ Tám họp xong ít ngày thì phát xít Đức tấn công Liên-xô, Bác phân tích tình hình quần chúng, địa hình và khí hậu Liên-xô, rồi kết luận : ngày xưa thời Nga hoàng, nước Nga rất yếu, mà Na-pô-lê-ông nổi danh vô địch cũng bị bại trận khi đánh Nga. Nay Liên-xô là cộng sản, tổ chức rất cao, chế độ rất tốt, quần chúng rất giác ngộ, nhất định sẽ đánh bại và tiêu diệt phát xít.
Bác vẽ cho báo Việt Nam độc lập một hình đồng chí Sta-lin đánh nhau với Hít-le, đồng chí Sta-lin vật Hít-le xuống và ngồi đè lên trên, để quần chúng hiểu mau rằng Liên-xô sẽ thắng.
Bác lại viết nhiều bài thơ ca cũng nói lên ý đó.
Cở sở trong nước lúc bấy giờ rất mạnh. Giặc Pháp ngoài việc khủng bố, còn tìm cách dụ dỗ lừa bịp quần chúng, cố gây ra một phong trào đầu thú. Bắt ép được vài ba người đầu thú, chúng không bắt bớ gì, mà lại cho vài cân muối rồi tha về. Tình hình ấy có thể nguy hại.
Tôi bàn với anh Đồng và anh Giáp đưa cán bộ xuống phân tích rõ tác hại của việc đi đầu thú, đồng thời cũng bày cách cho quần chúng, nếu bị chúng bắt đi đầu thú thì làm thế nào để khỏi vỡ cơ sở, mà vẫn lấy được muối ăn. Quần chúng làm theo, và do đó không bị thiệt hại.
Ở chiến khu, Bác vẫn mở các lớp huấn luyện cho cán bộ, và chuyên chú viết sách tuyên truyền. Bác viết các sách Tam-tư, Ngũ-tự, lại làm một quyển địa dư các tỉnh và một quyển lịch sử Việt Nam bằng thơ lục bát. Quyển sử chép từ đời Hồng Bàng cho đến thời Pháp thuộc, đằng cuối sách có mục lục ghi rõ thời kỳ nào có phong trào gì chống đế quốc Pháp. Cuối cùng Bác ghi Việt Nam độc lập năm 1945. Các đồng chí đọc sách bàn tán rất nhiều niên hiệu đó. Có đồng chí phàn nàn sao chậm thế, có đồng chí lại cho thế là sớm quá. Bác chỉ bảo : ờ ờ để rồi xem xem.
Sau đó, cơ quan rời Pắc Bó về tỉnh lỵ Cao Bằng, khi di chuyển, đi đêm, bị lạc anh em lủng củng gắt nhau. Bác cười bảo : lạc càng biết thêm nhiều đường chứ sao. Tây nó đuổi càng lắm lối chạy. Thế là mọi người lại vui. Khi về Pắc Bó, sáng nào Bác cũng tập thể dục. Bác có hòn cuội, tròn như quả quýt, luôn cầm ở tay, bóp vào lại xòe ra. Về Cao Bằng Bác vẫn mang theo. Tới cơ quan mới, Bác bắt đầu dịch từ Trung văn ra bộ lịch sử Đảng cộng sản ( Bôn-sơ-vích) Liên-xô. Bác nhìn vào sách dịch rồi đánh máy luôn ra, không có bản nháp. Cái máy chữ cũ Bác vẫn mang theo luôn bên mình. Dịch xong bộ sử đó, Bác tổ chức ăn mừng, nghĩa là bữa ăn có thịt và rau tươi.
Giặc Pháp vẫn ráo riết lùng cơ sở ta. Chúng thả mật thám như rươi. Các anh Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm thường bàn mật với nhau, có ý muốn “xịt” một vài thằng “chó”nguy hiểm. Một buổi Bác triệu tập hai anh đến học chính trị. Bác lấy lịch sử Đảng cộng sản Liên-xô ra bảo các anh nghiên cứu đoạn Lê-nin viết chống việc ám sát cá nhân. Hai anh ngẩn người, thầm thì với nhau : quái, sao mới dự định mà ông Cụ đã biết ?”[6]
*
* *
“Hôm đó là ngày mồng 3 tết. Cả nhà tôi ăn cơm chiều xong, đang ngồi quây quần bên bếp lửa. Bên ngoài, trời tối dần. Nhìn ra đường đã không rõ nữa, mà trông lên các ngọn núi chung quanh nhà chỉ thấy một màu tối đen như mực. Thỉnh thoảng một cơn gió nổi lên, lạnh rùng mình. Tôi ngồi xích lại gần đống lửa. Lúc này chỉ nghĩ đến việc phải ra ngoài cũng đã đủ thấy ngại. Chợt dưới nhà có tiếng gọi lên :
- Đại Lâm có nhà không đấy !
Tôi nghe giọng đã biết ngay là các đồng chí Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm rồi. Cả nhà tôi ai cũng biết hai đồng chí đó. Chính các đồng chí là những người đầu tiên đến tuyên truyền cách mạng ở vùng Pắc Bó này từ năm 1937.
Tưởng các đồng chí đến chơi chúc Tết, bố tôi mừng rỡ chạy ra cửa đón.
Lên nhà, chưa kịp ngồi uống chén nước, đồng chí Ba đã nói ngay :
- Chúng cháu có việc vội. Cụ cho chúng cháu mượn hai bộ quần áo, một cái nồi, một cái chiếu, vài cái bát đôi đũa để chúng cháu mang lên hang ở.
Giá ngày thường như vậy thì cả nhà tôi chẳng ai lấy làm lạ. Nhưng đằng này lại là ngày tết, sao lại vội vàng thế ? Bố tôi mới nghe đã lắc đầu, gạt đi ngay :
- Không được ! Tôi không để các đồng chí đi đâu cả ! – Vừa nói, bố tôi vừa kéo tay hai đồng chí ngồi xuống.
Nhưng đồng chí Ba, đồng chí Sâm vẫn nằn nì xin đi ngay. Bố tôi lại nói :
- Đã lâu ngày các đồng chí mới về, sao lại không ở chơi với chúng tôi ? Hay gia đình có điều gì thiếu sót thì các đồng chí bỏ qua cho. Hôm nay hãy cứ ở đây với chúng tôi. Ai lại lên hang ở lúc này cho rét mướt, vất vả !
Hai đồng chí cứ đứng tần ngần giữa nhà, không biết nói thế nào. Cuối cùng đồng chí Ba đành nói thật :
- Lâu nay chúng cháu vẫn nhờ bà con trong làng để sống và hoạt động. Từ đây về sau cũng thế. Nhưng hôm nay có mấy đồng chí lạ đến, xuống làng e không tiện cho việc giữ bí mật. Vậy xin cụ tha thứ cho chúng cháu.
Đến lúc đó bố tôi mới để cho các đồng chí đi. Nhưng khi các đồng chí đi rồi, bố tôi vẫn thắc mắc không yên. Tôi cũng thấy lạ. Tôi đã được đi theo đồng chí Ba từ lâu, mà lần này đồng chí Ba phải giữ bí mật như thế, chắc là có điều gì đặc biệt lắm. Cả đêm hôm đó, tôi thấp thỏm không ngủ được. Tôi nằm bên đống lửa, nghe gió rít ngoài trời lại càng thương các đồng chí phải ở trên núi đá, hang sâu lạnh lẽo. Bố tôi cũng không ngủ được, chốc chốc lại dậy hút thuốc và lầm bầm :
- Hảo nhân đa hữu nạn ! Người tốt lại thường gặp lắm gian nan !
Sớm hôm sau, trời mới mờ sáng, bố tôi đã bắt tôi đi thu xếp rượu thịt, bánh chưng, chè lam… cho vào một cái giỏ xách đi và dẫn bố tôi lên hang. Tôi cũng đang nóng biết chuyện mới lạ, nên đi nhanh lắm. Đường từ nhà tôi vào hang Cốc Bó cũng có chỗ khó đi, phải lội qua mấy cái suối, leo qua một vài dốc đá, nhưng hai bố con tôi đi băng băng, chỉ một chốc đã tới nơi. Đến gần hang, còn ở bên này suối, tôi đã trông thấy mấy người đang ngồi ở bãi nương dưới chân hang, bên bờ suối. Đến gần hơn, tôi trông rõ hai đồng chí già, râu dài, đang ngồi làm việc. Tôi thầm đoán : “Đây chắc là các đồng chí lão cách mạng”.
Tôi còn đang ngắm nghía, suy nghĩ thì một trong hai đồng chí già đứng dậy ra bắt tay hai bố con tôi. Bố tôi chào lại, còn tôi thì cứ đứng ngây ra nhìn đồng chí già không chớp mắt. Tôi thấy đồng chí râu dài hơn có đôi mắt sáng ngời, cử chỉ nhanh nhẹn, vồn vã. Nhìn những người chung quanh tôi thấy ai đối với đồng chí già này cũng tỏ thái độ tôn kính lắm. Tôi nghĩ : “Đúng là một đồng chí lãnh tụ cao cấp rồi”.
Trước đây tôi đã được nghe nói có đồng chí Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ của Đảng. Lúc này tôi thoáng nghĩ : “Hay là chính đồng chí này đây”. Nhưng tôi nín lặng không dám hỏi ai. Tự nhiên trong lòng tôi thấy bồi hồi cảm động. Cách mạng đã mở ra cho tôi biết con đường phải đi tới. Bây giờ lại được thấy những đồng chí lãnh tụ già tuổi đời, cao tuổi Đảng về đây, chắc chắn cách mạng ngày càng mạnh và mau chóng thành công.
Bố tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với Bác – vì đồng chí già đó chính là Bác kính yêu của chúng ta. Câu chuyện giữa hai người sôi nổi vui vẻ lắm. Bác hỏi thăm tình hình địa phương, việc làm ăn của nhân dân, sự khủng bố của kẻ địch…
Bố tôi đáp lại lời Bác :
- Bọn tổng lý, kỳ hào, lính dõng, thổ phỉ, ở đây ác lắm. Chúng ức hiếp nhân dân chúng tôi nhiều lắm !
Bố tôi nói xong, Bác nhẹ nhàng giải thích, đại ý :
- Tình cảnh nhân dân địa phương ta bị áp bức cũng là tình hình chung của toàn dân cả nước hiện nay. Bọn tổng lý, kỳ hào, lính dõng đúng là ác thật, nhưng nếu không có bọn đế quốc, không có thằng Tây thì bọn chúng chẳng làm gì được ta đâu.
… Nghe đến đây tôi mới nghĩ ra : “À, thế là từ trước đến nay mình chưa thấy hết tội ác của bọn đầu sỏ, mà chỉ thấy bọn tay chân của chúng thôi. Cũng như đóng một cái đinh vào gỗ thì phải có búa, nhưng mình chỉ thấy đinh mà không thấy búa. Mỗi lần bọn thổ phỉ hoặc bọn lính dồn đến cướp bóc thì mình chỉ nghĩ làm sao đánh đuổi được bọn chúng đi thôi. Còn mấy thằng Tây trên đồn Sóc Giang họa hoằn mới đến làng và cái bọn thống trị chung cả nước, thì mình lại chưa biết đến nó sâu sắc. Đúng là tầm mắt mình còn hẹp quá”.
Tôi lại chăm chú nghe, Bác nói thêm, đại ý là :
- Muốn đánh đổ bọn thống trị làm cho đời mình khỏi khổ thì không phải chỉ nhân dân Pắc Bó làm cách mạng là được. Phải đoàn kết toàn dân, già, trẻ, trai, gái cả nước thành một sức mạnh, lợi dụng lúc bọn đế quốc đang bị suy yếu trong cuộc chiến tranh thế giới mà đứng lên đánh đuổi chúng đi, giành lại độc lập cho Tổ quốc, thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, tự người mình trông nom lấy đất nước của mình.
Nghe Bác, tôi cảm thấy đầu óc được sáng thêm ra. Mỗi lời nói của Bác làm cho tôi càng thấy rõ tương lai đất nước, lại như nhắc nhủ tôi phải học nhiều, hiểu biết nhiều hơn nữa, mới có thể làm cách mạng được.
Hôm ấy Bác bảo bố con tôi ở lại ăn cơm. Đồng chí cấp dưỡng của Bác đem thức ăn ra. Tôi thấy có rau cải, rau rừng, ốc suối – món ốc này chính Bác và các đồng chí ở đây đi mò lấy. Tôi cũng không ngờ món ăn ngày tết của các đồng chí chỉ có thế. Như hiểu ý bố con tôi, Bác nói :
- Hôm nay được cụ mang cho rượu, bánh, thịt, thế là tết đầy đủ lắm rồi.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận